11/3/17

Phong Điền kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954)

I. TRONG NĂM ĐẦU TIÊN SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945
            Cách mạng tháng Tám 1945 thành công đã đem lại độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam. Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cùng với nhân dân cả nước, lần đầu tiên sau 60 năm (kể từ năm 1885) bị xâm lược và thống trị bởi đế quốc Pháp, phát xít Nhật và phong kiến tay sai, nhân dân Phong Điền đã thật sự làm chủ đời mình, làm chủ quê hương đất nước.
            Từ tháng 9-1945, hệ thống chính quyền cách mạng từ xã đến huyện nhanh chóng hình thành và đi vào hoạt động. Huyện Phong Điền từ 5 tổng tổ chức lại thành 9 xã là Phong Thái, Phong Dinh, Phong Thu, Phong Lâu, Phong Nhiêu, Phong Hải, Phong Khánh, Phong Phú và Phong Thạnh. Đến cuối năm 1945, thực hiện Sắc lệnh số 63/SL ngày 22-11-1945 và Sắc lệnh số 77/SL ngày 21-12-1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tổ chức chính quyền nhân dân và ủy ban hành chính các cấp, ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện được đổi thành ủy ban hành chính lâm thời huyện với Chủ tịch là Hoàng Thái.
           Chính quyền cách mạng vừa mới thành lập đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn thử thách. Trong toàn huyện, nạn đói năm 1945 do đế quốc Pháp và phát xít Nhật gây ra vẫn còn đe dọa tiếp diễn. Nhiều gia đình thiếu ăn, đói kém, phải tha phương cầu thực. Đồng ruộng xác xơ, sức kéo bị thiếu hụt do trâu bò chết chóc nhiều qua nạn đói. Các ngành sản xuất thủ công bị đình đốn. Ngoài ra, những di hại của một nền giáo dục nô dịch do thực dân để lại cũng rất nặng nề với hơn 90% dân chúng bị mù chữ, các tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc, trộm cắp, mê tín dị đoan còn phổ biến. Riêng ở miền núi phía Tây, 100% đồng bào các dân tộc Pahy bị mù chữ, đời sống hết sức thiếu thốn và lạc hậu. Đấy là những vấn đề nhức nhối mà chính quyền cách mạng phải cấp bách giải quyết.
           Trong lúc những khó khăn về kinh tế - xã hội còn đang gay gắt thì họa thù trong giặc ngoài lại đe dọa nghiêm trọng đến sự tồn tại của chế độ mới. Dưới danh nghĩa quân đồng minh, 20 vạn quân Tàu Tưởng từ ngày 28-8-1945 đã kéo vào miền Bắc nước ta cho đến vĩ tuyến 16 (Đà Nẵng) để giải giáp quân đội Nhật. Đầu tháng 9-1945, 5.000 quân Tưởng đến Huế. Đi đến đâu chúng cũng gây ra những cảnh cướp bóc, gây gỗ, đánh đập đồng bào, lại dùng đồng Quan Kim đã mất giá để mua hết lương thực, thực phẩm đang rất thiếu thốn của nhân dân ta. Bên cạnh quân Tưởng, hơn 4.500 quân Nhật với đầy đủ vũ khí vẫn còn ở Huế, đang chờ ngày quân đội đồng minh giải giáp cũng tìm cách gây xung đột với tự vệ của ta. Cuối tháng 8-1945, một đơn vị quân Nhật kéo đến thôn Bồ Điền, đòi lên Hiền Sĩ (Phong Điền) để tìm người của chúng, gây ra cái chết của 1 tự vệ và làm bị thương một số người dân. Đến tháng 3-1946, khi quân Tưởng phải rút về nước do sự thỏa thuận giữa Chính phủ Trùng Khánh và Pháp bởi Hiệp ước Pháp - Hoa ngày 28-2-1946, thì lập tức ở Huế có mặt 850 quân Pháp với trang bị vũ khí hiện đại (xe bọc thép, pháo tự hành...) do viên quan năm Coste chỉ huy, cộng với hơn 400 sĩ quan, binh lính và nhân viên người Pháp đã có từ trước cũng được vũ trang đầy đủ.
           Bên cạnh những khó khăn rất lớn nói trên, Phong Điền sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám còn có những thuận lợi cơ bản. Đó là ý chí và quyết tâm không gì lay chuyển nổi của mỗi người dân đã được đổi đời, từ nô lệ vươn lên làm chủ vận mệnh của mình trong việc xây dựng và bảo vệ một chế độ mới của dân và vì dân. Đó là lòng yêu nước nồng nàn và truyền thống cách mạng kiên cường, là tinh thần đoàn kết keo sơn và luôn biết chịu khó, đã vượt qua nhiều thử thách. Được sự quan tâm của Đảng và Chính phủ, nhân dân Phong Điền với những thuận lợi đó đã sẵn sàng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chế độ mới.
            Trong phiên họp của Hội đồng Chính phủ ngày 3-9-1945, Hồ Chủ tịch đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách nhằm ổn định đời sống nhân dân, xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng; sau đó, Người khái quát thành ba nhiệm vụ trọng tâm là diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm.
            Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Tỉnh ủy, ngay trong tháng 9-1945, Huyện ủy do Hoàng Tiến làm Bí thư và Ủy ban Nhân dân cách mạng lâm thời huyện đã xác định một số nhiệm vụ cụ thể trước mắt, coi đó là ưu tiên hàng đầu của chính quyền cách mạng trong việc xây dựng và bảo vệ chế độ mới.
             Trên mặt trận cứu đói, theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, biện pháp trước mắt được thực hiện trong toàn huyện là phát động phong trào “Nhường cơm xẻ áo”, đồng cam cộng khổ thương yêu đùm bọc lẫn nhau để vượt qua đói kém. Một phong trào quyên góp cho “Ngày đồng tâm”, “Hũ gạo cứu đói” được phát động mạnh mẽ khắp cả 9 xã trong huyện. Chỉ sau một thời gian ngắn, số lượng lương thực quyên góp được đã bước đầu giúp đẩy lùi dần nạn đói kém.
            Để giải quyết nạn đói tận gốc, biện pháp cơ bản lâu dài mà chính quyền cách mạng phát động song song với việc cứu đói là đẩy mạnh phong trào tăng gia sản xuất. Khắp nơi khoai sắn, rau đậu được trồng tỉa, phủ kín những vạt đất còn để hoang. Những rẻo đất bên đường, ven sông hồ, bìa rừng, ven phá Tam Giang cũng được tận dụng trồng màu. Vụ lúa Hè Thu 1945 và vụ Đông Xuân 1946 được mùa, không xảy ra đói giáp hạt như những năm trước.
           Đi đôi với công tác chống đói, chính quyền cách mạng huyện đã quan tâm thực thi các quyền tự do dân chủ, quyền nam nữ bình đẳng, quyền tự do tín ngưỡng cho mọi người dân, bãi bỏ chế độ thuế thân và các loại thuế vô lý khác do thực dân phong kiến đặt ra, đồng thời xóa nợ, hoãn nợ và tiến hành chia lại ruộng đất một cách công bằng, hợp lý cho cả nam lẫn nữ. Mặc khác, để giải quyết những khó khăn của nền tài chính quốc gia, bên cạnh việc kêu gọi thực hành tiết kiệm, chính quyền huyện còn hưởng ứng chủ trương của Chính phủ, phát động nhân dân tham gia tích cực “Tuần lễ đồng”, “Tuần lễ vàng”. Tuy còn nhiều thiếu thốn nhưng nhân dân trong huyện đã tích cực tham gia, tự nguyện đóng góp từ những đôi hoa tai, nhẫn cưới đến mâm thau, nồi đồng... để giúp vào việc quốc phòng và kiến thiết đất nước.
            Trên mặt trận văn hóa giáo dục, hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, phong trào bình dân học vụ trong toàn huyện đã diễn ra sôi nổi, cuốn hút nhiều tầng lớp tham gia với đủ mọi lứa tuổi. Một không khí học chữ quốc ngữ tràn ngập khắp các xóm làng, cả đêm lẫn ngày. Với tinh thần ham học, sau gần một năm Phong Điền đã có hàng nghìn người dân thoát nạn mù chữ. Công tác vận động thực hiện nếp sống mới, giáo dục lòng yêu nước, yêu chính nghĩa, ghét tàn bạo, rèn luyện đạo đức cách mạng, bài trừ các tệ nạn xã hội được tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân.
            Những thắng lợi bước đầu trên mặt trận chống “giặc đói”, chống “giặc dốt” đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc củng cố hệ thống chính trị của chế độ mới. Ngày 6-1-1946, cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội được tổ chức trong cả nước theo chế độ phổ thông đầu phiếu, không phân biệt trai, gái, dân tộc, tôn giáo. Lần đầu tiên trong cuộc đời mình, nhân dân Phong Điền từ 18 tuổi trở lên được cầm lá phiếu bầu những đại biểu vào cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu trên 90%, có xã đạt 100%. Tất cả ứng cử viên do mặt trận Việt Minh giới thiệu đều trúng cử với số phiếu cao. Tỉnh Thừa Thiên bầu được 5 đại biểu Quốc hội trong đó có Hoàng Anh.
            Tháng 3-1946, sau kỳ bầu cử Hội đồng Nhân dân các cấp, Ủy ban Hành chính huyện cũng nhanh chóng được kiện toàn. Các tổ chức quần chúng như mặt trận Việt Minh, thanh niên cứu quốc, phụ nữ cứu quốc, công nhân cứu quốc v.v.. cũng được củng cố và ngày càng phát triển.
            Để bảo vệ chế độ mới, cuộc sống mới của nhân dân và chống lại âm mưu của kẻ thù, chính quyền cách mạng ngay từ ngày đầu thành lập đã hết sức coi trọng việc xây dựng lực lượng tự vệ và vũ trang tập trung. Hầu hết các thôn, xã đều có lực lượng tự vệ chiến đấu. Với những vũ khí thô sơ như gậy gộc, giáo mác, anh em các đội tự vệ đã hăng hái luyện tập ngày đêm, thường xuyên giữ gìn an ninh trật tự thôn xóm và sẵn sàng tham gia hỗ trợ chiến đấu khi cần thiết. Nhiều làng trong huyện đẩy mạnh việc rèn đúc vũ khí.
           Đêm 22 rạng ngày 23-9-1945, thực dân Pháp đánh chiếm Sài Gòn, bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta một lần nữa. Cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Bộ lập tức nổ ra. Hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch về việc ủng hộ sức người, sức của cho Nam Bộ kháng chiến, nhân dân Phong Điền đã động viên con em mình vào Nam chiến đấu. Phong trào “Nam tiến” và “Tây tiến” diễn ra sôi nổi, rầm rộ. Nhiều thanh niên đã tự nguyện vào Nam chiến đấu và qua Lào đánh giặc ở Sê Pôn, Mường Phèn, Đồng Hến, Pha Băng, Xavanakhét.
           Tháng 7-1946, Hội nghị Cán bộ Đảng tỉnh Thừa Thiên được tổ chức tại trụ sở Ủy ban Hành chính Trung Bộ (Tòa Khâm cũ) với sự tham dự của đại biểu 6 huyện và thành phố Huế, dưới sự chủ trì của Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ Nguyễn Chí Thanh. Hội nghị đề ra 3 nhiệm vụ lớn:
  • Gấp rút kiện toàn các huyện ủy, xây dựng các chi bộ cơ sở, đoàn kết nội bộ, nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp ủy Đảng.
  • Đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng lực lượng dân quân tự vệ và bộ đội chủ lực tỉnh.
  • Bồi dưỡng và đào tạo cán bộ cho các tổ chức quần chúng.
            Sau hội nghị, công tác chuẩn bị kháng chiến càng khẩn trương. Tỉnh ủy cử 2 đoàn cán bộ về các huyện để chỉ đạo và kiểm tra công tác chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu. Tư tưởng chỉ đạo của Tỉnh ủy là “cán bộ bám đất, bám dân, bám cơ sở, kiên quyết tiêu diệt quân Pháp ở Huế khi có lệnh của Trung ương”.
            Thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến, nhân dân đã tự tay đập phá những nơi địch có thể lợi dụng để đóng quân, lập đồn bót. Một đoàn cán bộ được tỉnh cử đi nghiên cứu, xác định địa bàn lập căn cứ kháng chiến về sau. Vùng Trò, Khe Trái sẽ là căn cứ chính thức của tỉnh, Hòa Mỹ là căn cứ thứ hai. Một kế hoạch tản cư, đưa người già, phụ nữ và trẻ em ra khỏi vùng chiến sự được thực hiện.
            Ngày 20-11-1946, quân Pháp đánh chiếm thành phố Hải Phòng và thị xã Lạng Sơn, bịt hai cửa ngõ đường thủy và đường bộ vào Việt Nam, rồi sau đó đổ thêm quân vào Đà Nẵng. Ngày 15-12-1946, khi quân Pháp nổ súng ở nhiều nơi trong thành phố Hà Nội, Khu ủy Khu IV mở Hội nghị để bàn kế hoạch tiến công quân Pháp ở Huế. Bộ máy lãnh đạo kháng chiến của tỉnh được Trung ương bổ sung cán bộ và nhanh chóng bắt tay vào việc. Từ tỉnh xuống huyện xã đều thành lập thêm ủy ban kháng chiến bên cạnh ủy ban hành chính. Cùng cả nước và cả tỉnh, nhân dân Phong Điền đã sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược.
II. TỪ KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC ĐẾN ĐẦU NĂM 1951
           Chiều 19-12-1946, Ủy ban Kháng chiến tỉnh họp. Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Chí Thanh thông báo tình hình trước giờ nổ súng và giao nhiệm vụ cho các đơn vị: tập trung sức tiêu diệt quân địch tại Huế trước khi chúng có quân tiếp viện đến, khi tiêu diệt hết số địch ở bên trong thì sẽ rảnh tay đối phó với viện binh địch từ ngoài đánh vào.
            Hai giờ rưỡi sáng ngày 20-12-1946, cuộc chiến đấu của quân và dân Thừa Thiên Huế bắt đầu. Quả bom 50 kg của ta phát nổ, giật sập cầu Trường Tiền cùng lúc với việc công nhân phá hủy nhà máy Đèn. Trong đêm đen, bộ đội và dân quân từ nhiều vị trí hò reo xung phong, tiến công đồng loạt vào các khu vực đóng quân của địch ở Huế. Thừa Thiên Huế nhất tề đứng lên, theo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch.
            Ngay từ những ngày đầu, nhân dân Phong Điền đã dồn sức người sức của chi viện cho mặt trận. Các chiến sĩ con em Phong Điền trong Trung đoàn Trần Cao Vân chiến đấu anh dũng, tiêu diệt một số vị trí địch ở bờ Nam sông Hương. Từng đoàn dân công của các xã hăng hái vác đạn, tải thương phục vụ chiến trường. Tết Đinh Hợi (1947), các mẹ, các chị mang quà bánh đến tận chiến hào, động viên các chiến sĩ. Trong khi đó, việc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài ở Phong Điền được tiến hành khẩn trương hơn. Cơ quan huyện chuyển về đóng tại các xã Phong Thái, Phong Nhiêu và Phong Chương. Dân công các xã mang vác máy móc lên Hoà Mỹ. Nhân dân trong huyện tích cực thực hiện “vườn không nhà trống”, đồng thời chuẩn bị tản cư và tiến hành phá hoại để kháng chiến.
           Việc tiến công tiêu diệt một đội quân ngót 1.000 tên có vũ khí và kinh nghiệm chiến đấu hơn hẳn ta, lại biết cách cố thủ trong các vị trí kiên cố, là một việc làm vượt quá khả năng của bộ đội đang còn non trẻ của ta lúc bấy giờ.
            Ngày 10-1-1947, 1.000 lính Pháp có trọng pháo và máy bay yểm hộ, mở một mặt trận ở phía Tây Quảng Trị, theo đường số 9 đánh dọc xuống. Ngày 14-1, một cánh quân khác đông hơn, gồm 5.000 tên do Đại tá La Roque chỉ huy, đủ cả bộ binh, nhảy dù, pháo binh, xe tăng, máy bay, đổ bộ lên vùng Thừa Lưu, Lăng Cô, mở một mặt trận thứ hai ở Nam Thừa Thiên. Đến ngày 6-2-1947, các cánh quân địch đã liên lạc được với số lính đang bị vây hơn một tháng ở Huế. Bị đánh từ nhiều phía, các đơn vị bộ đội ta trước sau phải rút qua bờ Bắc sông Hương, nhiều đơn vị mất liên lạc với nhau. Ngày 8-2-1947, địch quân tràn qua sông Hương bằng hai gọng kìm, bao vây khu vực phía Bắc Huế, và đến ngày 13-2-1947 thì chúng chiếm được Mỹ Chánh, địa điểm ở Quảng Trị tiếp giáp với Thừa Thiên về phía Bắc.
             Đầu tháng 2-1947, cuộc kháng chiến của quân và dân Thừa Thiên Huế gặp vô vàn khó khăn, thử thách. Ủy ban Kháng chiến tỉnh phải chuyển ra làng Hương Cần (Hương Trà), sau đó phải lùi xa Huế hơn, đến Bồ Điền, Hiền Sỹ và Khe Trái, Hòa Mỹ. Một bầu không khí hoang mang, lo âu trùm lên mọi người.
             Ngày 12-3-1947, Thường vụ Tỉnh ủy họp phiên đầu tiên sau ngày thực dân Pháp xâm chiếm được toàn tỉnh. Cuộc họp đã thống nhất mấy việc:
  • Khi đã chiếm được các vùng xung yếu và đường giao thông quan trọng trong tỉnh, địch sẽ lùng bắt thanh niên vào lính, lập bộ máy ngụy quyền, tiếp tục chống phá cuộc kháng chiến của ta. Nhiệm vụ cần kíp của cán bộ là phải bám đất bám dân, động viên mọi người giữ vững kháng chiến, ủng hộ bộ đội, không hợp tác với giặc.
  • Các huyện phải mau chóng tập hợp những bộ đội còn tản mác, thu thập vũ khí, chọn một số tự vệ hăng hái lập thành những đội quyết tử quân để có thể chiến đấu bảo vệ xóm làng, quấy rối đồn địch và trừ gian diệt tề.
  • Chọn vùng Hòa Mỹ (Phong Điền) làm căn cứ kháng chiến của tỉnh, gọi là chiến khu Hòa Mỹ.
  • Củng cố các đơn vị bộ đội đã tập hợp được, điều tra tình hình địch và chuẩn bị đánh một vài trận để gây tiếng vang.
             Như nhận định của cuộc họp, sau ngày chiếm được Huế không lâu, Pháp đã tính chuyện lập chính quyền bù nhìn ở các cấp. Ngày 15-4-1947, Hội đồng Chấp chánh lâm thời Trung Kỳ đặt tại Huế được Pháp dựng lên và ra bản tuyên ngôn, do Trần Văn Lý làm Hội trưởng. Ngày 17-6, Hội đồng này ra nghị định thành lập “Huấn luyện binh sĩ cuộc” ở Huế, làm nơi đào tạo hạ sĩ quan và huấn luyện binh lính tay sai. Mười ngày sau, Trần Văn Lý cho ra một nghị định khác, nói rõ việc mỗi làng phải có từ 10 đến 50 hương vệ để kiểm soát mọi động tĩnh của dân làng. Lần lượt từ tỉnh cho đến huyện, xã và thôn, bộ máy ngụy quyền làm việc cho Pháp được lập ra mà nhiệm vụ trước hết và quan trọng nhất là dẹp cho được Việt Minh, phá cho được phong trào kháng chiến.
           Trên địa bàn Phong Điền, thực dân Pháp bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược bằng những hành động vô cùng dã man. Tại Phong Thái và Phong Nhiêu, chúng giết hơn 100 người, đa số là người già và trẻ em, đồng thời đốt cháy toàn bộ nhà cửa, vườn tược tại nhiều thôn. Một hệ thống đồn bốt dày đặc được lập ra bao gồm ba tuyến: dọc theo bờ biển (các đồn Đại Lộc, Thế Chí Đông, Thanh Hương và Vân Trình), dọc theo Quốc lộ 1 (các đồn Phò Trạch, Cầu Nhi và Sơn Tùng) và giáp vùng rừng núi (các đồn Sơn Quả, Thanh Tân và Đất Đỏ).
           Đi liền với những biện pháp quân sự tàn bạo là chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Bằng mua chuộc và khủng bố, địch tập trung bọn lý hương và cường hào cũ, bọn phản động đội lốt tôn giáo để lập ra hội tề ở các làng xã, các ổ gián điệp ngày đêm lùng sục, phục kích cán bộ và bộ đội, đồng thời báo cáo tin tức từ vùng Hoà Mỹ cho Pháp. Một số cai, đội sau Cách mạng tháng Tám đã về với nhân dân, quay trở lại làm đồn trưởng tay sai cho giặc.
             Để kháng chiến có chỗ đứng chân cần phải xây dựng chiến khu. Không bao lâu sau ngày mặt trận vỡ, với những nỗ lực rất lớn, ta đã biến vùng Hòa Mỹ thành một căn cứ kháng chiến của tỉnh.
             Hòa Mỹ ở phía Tây huyện Phong Điền, bao gồm một vạt đất bằng nằm giữa sông Ô Lâu - Rào Quao và dải núi rừng sát chân động Chuối. Đầu tháng 3-1947, chiến khu Hòa Mỹ đã được phân thành từng khu, từ CK I đến CK VII, dành cho những yêu cầu khác nhau. Có khu trú quân của các đơn vị bộ đội, nơi tập trung lúa gạo hàng hóa từ đồng bằng chở lên (CKI). Có nơi dành cho cơ quan công an và đơn vị bảo vệ (CKII). Lại có nơi cho văn phòng Ủy ban tỉnh, cơ xưởng chế tạo vũ khí, bào chế thuốc, bệnh viện cứu chữa thương bệnh binh. Cho đến giữa tháng 3-1947 thì Trung đoàn Trần Cao Vân đã có 3 tiểu đoàn đầy đủ và 1 đại đội biệt động tập trung ở Hòa Mỹ.
            “Anh em bộ đội càng ngày tập họp về càng đông. Nhưng càng ngày, chúng tôi thấy nhiều khó khăn. Lương thực, gạo đâu mà ăn? Dưới đồng bằng, bọn địch đã chiếm đóng... Phía bên này là miền trung du, phần lớn là khoai sắn, mà khoai sắn cũng không nhiều... Anh em lên nhiều thì lại càng đói... Cả ngày, anh em chỉ vào rừng, kiếm củ mài, môn rừng, chuối rừng, các thứ rau, hoa quả về ăn. Hết chỗ gần đến chỗ xa. Lúc đầu còn ăn no, sau dần chỉ nấu cháo. Cơn đói thường hay lôi theo cơn bệnh. Một phần, rừng núi âm u, trước đây ít thấy bóng người, muỗi vắt rất nhiều. Hồi ấy, anh em làm gì có được cấp phát mùng màn, chăn chiếu, áo quần. Ai có gì mặc nấy, mang từ lúc ra đi, qua bao ngày chiến đấu nay đã rách tả tơi... Đêm, không chiếu, không chăn, nằm cứ run bần bật... Rồi những cơn sốt rét ghê người. Thuốc men không có”.
          Tiểu đoàn Tiếp phòng quân (sau gọi là Tiểu đoàn 328) đứng chân tại các xã Phong Chương, Phong Thu và Phong Nhiêu, kiên trì bám dân, giữ vững cơ sở và tìm cách tiếp tế cho chiến khu Hoà Mỹ.
           Trong bối cảnh khó khăn của những ngày đầu kháng chiến, từ ngày 25 đến ngày 27-3-1947 tại làng Nam Dương huyện Quảng Điền, Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng đã đề ra những chủ trương:
  • Tiếp tục tiếng súng kháng chiến, tiến hành trừ gian diệt tề và phá chính sách bình định của giặc. Đánh địch bằng cách đánh du kích để nhân dân thấy rõ bộ đội vẫn còn, Việt Minh vẫn còn, kháng chiến còn tiếp tục.
  • Đẩy mạnh tăng gia sản xuất, cất giấu lương thực, tiếp tế cho chiến khu. Chú ý chống giặc tàn phá mùa màng, canh gác để bà con làm ăn, canh tác.
  • Xây dựng lại cơ sở kháng chiến ở các huyện, xã. Tiếp tục đưa cán bộ trở về địa phương để hoạt động, nhanh chóng khôi phục lực lượng kháng chiến.
         Đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Bí thư Tỉnh ủy nhắc nhở cán bộ: “Mất đất chưa phải là mất nước. Chúng ta phải tranh thủ từng người, từng thôn. Chúng ta không để mất dân, chết cũng không rời cơ sở. Chúng ta nhất định thắng”.
         Hội nghị kết thúc được mấy hôm thì ta đánh đồn Đất Đỏ, cái đồn án ngữ con đường liên lạc với đồng bằng của chiến khu Hòa Mỹ.
         Trước trận đánh ta đã vận động được lý Cảnh-Lý trưởng làng Đất Đỏ do Pháp dựng ra về làm việc với ta. Lý Cảnh đưa được 20 chiến sĩ vào làm cu li, bồi bếp phục vụ bọn lính trong đồn để làm nội ứng. Chiều 29-3-1947, theo đúng kế hoạch, những người “bồi bếp” đó đã ném lựu đạn vào giữa bàn ăn, tiêu diệt một số. Cùng lúc 4 tiểu đội phục sẵn bên ngoài xung phong tấn công. Đến 12 giờ khuya ta tổ chức xung phong lần thứ hai và hạ được đồn. Kết quả: 1 trung đội lính Pháp đóng ở đồn bị tiêu diệt, 1 sĩ quan Pháp bị bắt. Bên ta hy sinh 8 chiến sĩ và 3 dân quân. Ta tiêu hủy đồn và thu được 5 súng cối 60 ly, 2 đại liên, 11 súng trường và 200 viên đạn.
            Chiến thắng Đất Đỏ được Bộ trưởng Bộ Quốc phòng biểu dương: “Chiến thuật của ta lúc này cũng phải tranh thủ tấn công... Trong tấn công ta phải đánh tiêu diệt. Trận Đất Đỏ là một trận đánh tiêu diệt”.Từ đó về sau Pháp thôi không đóng đồn ở Đất Đỏ nữa.
            Tháng 5-1947, Đại hội đảng bộ huyện chủ trương tổ chức lại lực lượng ở sơ sở, khôi phục phong trào kháng chiến. Hai xã giáp với chiến khu Hoà Mỹ là Phong Thái và Phong Thu trở thành trọng điểm của việc tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị, kết hợp với bộ đội chủ lực đánh địch, bảo vệ chiến khu, đồng thời là địa bàn trung chuyển lương thực, thực phẩm từ các xã vùng sâu lên chiến khu này. Hai xã Phong Dinh và Phong Chương tiếp tục duy trì các gia đình cơ sở, từng bước xây dựng thành căn cứ kháng chiến ở đồng bằng. Các xã còn lại tăng cường cán bộ về bám địa bàn, gây dựng phong trào.
          Từ mùa Hè năm 1947, cán bộ đảng viên sau những ngày khó khăn đã bắt đầu liên lạc với nhau. Tuy số lượng còn lại không nhiều, nhưng những người con kiên trung đó đã biết bám dân, bám đất. Và việc bám dân, bám đất hồi ấy không đơn giản và dễ dàng chút nào.
           Giữa vòng vây của giặc, luôn có những trận càn đi quét lại và bọn Việt gian mật thám lùng sục tận các xóm ngõ, thì việc trở về làng xã của cán bộ, đảng viên, bộ đội là vô cùng gian khổ và hiểm nguy, phải đổi bằng mạng sống. Ban ngày phải nằm bờ nằm bụi ở cồn mồ, đồng ruộng hoặc giữa cồn cát nóng, chịu đựng cái đói, cái rét và cả bệnh tật hoành hành. Ban đêm mới len lỏi, bí mật vào tận thôn xóm, tuyên truyền bà con tham gia kháng chiến, gây dựng cơ sở, thành lập dân quân du kích. Bắt đầu xuất hiện hầm bí mật ở trong nhà, ngoài vườn, dưới những rặng tre... do các cơ sở kháng chiến xây dựng để bảo vệ, nuôi giấu cán bộ, chiến sĩ. Nhiều cán bộ chiến sĩ không may bị địch bắt, bị tra tấn hết sức dã man nhưng vẫn kiên cường, bất khuất, tiêu biểu là Huyện uỷ viên Lê Thiêm, Trung đội trưởng Lê Phiêu chỉ huy trung đội vũ trang tập trung của huyện, Chi ủy viên xã Phong Nhiêu Trương Tá Đình và các cán bộ Trần Đức Sum, Lê Vân, Phạm Lai v.v..
            Trong năm 1947, Huyện ủy Phong Điền còn đưa cán bộ lên phụ trách các xã ở miền núi A Lưới, đồng thời đẩy mạnh việc dạy chữ và giác ngộ cách mạng cho đồng bào. Miền núi A Lưới, Nam Đông trở thành những vùng căn cứ kháng chiến quan trọng của các huyện miền xuôi.
            Những thành tựu nói trên trong năm 1947 là dấu hiệu ban đầu của sự phục hồi phong trào kháng chiến trên địa bàn huyện, tuy rằng trước mắt cuộc chiến đấu vẫn còn nhiều gian khổ.
            Đầu năm 1948, chiến trường Thừa Thiên Huế nói chung và Phong Điền nói riêng bắt đầu hình thành các vùng: vùng tự do, gồm các xã miền núi và chiến khu của tỉnh; vùng căn cứ du kích gồm các xã có cơ sở và phong trào kháng chiến tương đối phát triển, có chính quyền ta quản lý; vùng du kích, nơi địch tạm thời chiếm đóng, lập hội tề, cũng là nơi diễn ra thường xuyên các hoạt động chiến tranh du kích của ta; vùng tạm bị chiếm, nơi chính quyền địch kiểm soát chặt. Ở mỗi vùng, địch có những thủ đoạn khác nhau. Riêng tại các vùng du kích và căn cứ du kích thì chúng tập trung đánh phá rất ác liệt theo phương châm ba sạch: giết sạch, đốt sạch và phá sạch. Đối với vùng địch đã lập được hội tề do lý trưởng cầm đầu ở mỗi làng thì chúng tiến hành những biện pháp kiểm soát chặt chẽ việc mua bán, vận chuyển thóc gạo, thuốc chống sốt rét, thuốc cứu thương lên chiến khu; ra sức phát hiện, bắt bớ, khủng bố cán bộ, gia đình cơ sở, gia đình có người thân tham gia kháng chiến; ngăn chặn mọi sự tiếp xúc của bà con với với cán bộ, đẩy cho được Việt Minh ra khỏi xóm làng. Bên cạnh việc giết người không ghê tay, giặc Pháp còn thực hiện những trận giặc lúa, phá hoại mùa màng ở những nơi chúng không kiểm soát được, giết chết cả trâu bò và cho xe tăng cày xới đồng ruộng đang mới trổ bông.
            Để đưa cán bộ nhanh chóng trở lại bám dân, bám đất, giải quyết tình hình khó khăn, Huyện ủy chủ trương phá tề và lập tề hai mặt. Chủ trương này đã được nhiều xã thôn thực hiện có kết quả. Từ đầu năm 1948, liên tiếp các đợt phá tề diễn ra trong toàn huyện, nhiều hội tề bị tan rã, một số hương lý ngoan cố bị tiêu diệt, số còn lại chạy trốn vào đồn địch.
           Trên lĩnh vực quân sự, đầu năm 1948 nổi lên một số trận đánh của bộ đội ta như trận tiêu diệt đồn Cầu Nhi trên đường Quốc lộ 1 vào ngày 23-1, mở thông con đường tiếp tế lên về giữa chiến khu và đồng bằng, quan trọng nhất là trận chống quân Pháp càn lên Hòa Mỹ từ ngày 7 đến ngày 23-3-1948.
           Sáng mồng 7-3, địch cho 3 máy bay ném bom, bắn phá ác liệt mặt trước của chiến khu, dọn đường cho quân dù nhảy xuống, đồng thời bộ binh từ Ồ Ồ ra, Phò Trạch đến, Cầu Nhi lên, cùng hợp điểm ở Hòa Mỹ. Lực lượng tham gia gồm tiểu đoàn bộ binh Âu Phi, 2 tiểu đoàn bộ binh ngụy, 2 tiểu đoàn pháo và 13 xe bọc thép.
Ta đã phòng bị từ trước, cho dân sơ tán và cất giữ tài sản của cơ quan, bệnh viện, công binh xưởng. Dựa vào địa thế hiểm trở đã quen thuộc, ta chủ trương đánh địch bằng bẫy bom, mìn, lựu đạn, kết hợp với hỏa lực của súng cối và các loại súng cá nhân, quyết tâm không cho địch tiến sát bìa rừng.
             Trong ngày đầu, địch đã liên tiếp tổ chức 5 đợt xung phong ở phía Nam và Đông Nam nhưng đều bị đánh bật trở lại. Ở phía Đông và Đông Bắc, cuộc tiến công của địch cũng bị bẻ gãy. Ngày hôm sau vẫn vậy. Giặc mới tiến vào bìa rừng đã bị ta đánh bật ra. Chúng lại rút và cho máy bay bắn phá. Cho đến khi quá mệt mỏi vì cứ quanh quẩn ở bên ngoài mà bom cho máy bay thì có hạn, chúng phải rút lui. 130 lính Pháp và 30 lính ngụy bị tiêu diệt là cái giá để trả cho cuộc tiến công không thành lên chiến khu. Câu nói “rừng che bộ đội, rừng vây quân thù” quả là đúng trong trường hợp này.
              Tháng 5-1948, chiến khu của tỉnh dời vào Dương Hoà, Trung đoàn 101 chuyển quân vào căn cứ mới. Huyện ủy Phong Điền do Nguyễn Tiếp làm Bí thư quyết định đưa các Huyện ủy viên và một số bộ phận của cơ quan huyện về Phong Chương, Phong Dinh cùng với Đại đội độc lập 120 xây dựng cơ sở. Các xã Phong Phú, Phong Thạnh, Phong Thái và Phong Nhiêu kết hợp việc phát triển các tổ chức quần chúng, nhất là trong thanh niên và phụ nữ với việc xây dựng tổ du kích mật.
              Vượt qua những khó khăn của một huyện bị địch thường xuyên chà đi xát lại bởi nhiều cuộc hành quân càn quét, lùng sục, huyện đã xây dựng được đại đội vũ trang tập trung, mang tên Đại đội 300 do Tống Hồ Trinh làm Đại đội trưởng, đồng thời ở mỗi xã có một tiểu đội du kích và một số cơ sở du kích mật. Hoạt động tác chiến đánh địch trở nên thường xuyên và có hiệu quả.
              Tháng 8-1948, một cơ sở ở Thế Chí Đông - nơi có đồn địch đóng - cho biết địch chuẩn bị càn quét vào xã Phong Chương ngày hôm sau. Ngay trong đêm đó, bộ đội và du kích đã vượt phá Tam Giang tổ chức phục kích trước đồn địch. Sáng hôm sau, khi tên đồn trưởng vừa dẫn lính ra khỏi đồn thì bất ngờ bị ta chặn đánh, tất cả đều hốt hoảng xin đầu hàng. Sau khi tước hết vũ khí và giải thích chính sách của kháng chiến, ta thả tự do cho chúng.
              Cũng trong tháng 8-1948, Đại đội độc lập 120 phối hợp với Đại đội 300 của huyện đã bí mật phục kích, xoá sổ hoàn toàn đại đội lính áo đen - một đại đội ác ôn đã gây nhiều tội ác đối với nhân dân Phong - Quảng. Nhân dân trong huyện hết sức phấn khởi.
              Ghi nhận những thành quả bước đầu nhưng rất quan trọng trong kháng chiến và kiến quốc của quân và dân trong huyện, tháng 11-1948, Hội nghị Đảng bộ huyện tổ chức tại Phú Nông (Phong Chương) đồng thời vạch ra nhiệm vụ mới là đẩy mạnh chiến tranh du kích, xây dựng dân quân và các đoàn thể, tiếp tục phá tề, trừ gian.
Các vùng căn cứ du kích ở đồng bằng dần dần được nới rộng. Đến cuối năm, các xã vùng cát thuộc Phong Điền, Quảng Điền đã nối liền với nhau, thông với Triệu Phong và Hải Lăng của Quảng Trị. Ở những xã đó, cán bộ và bộ đội ăn ở, đi lại công khai giữa ban ngày. Một số làng chiến đấu được xây dựng ở các xã Phong Thu, Phong Chương, Phong Dinh và Phong Nhiêu.
               Trên lĩnh vực kinh tế, người nông dân ở các vùng do ta kiểm soát đã được chia ruộng đất. Các chợ kháng chiến được lập ra, giúp bà con mua bán hàng hóa, sản phẩm và tiếp tế cho kháng chiến. Giấy bạc Việt Nam được lưu thông. Nhân dân tích cực mua công phiếu kháng chiến. Tờ trình của Tỉnh trưởng ngụy quyền ngày 5-10-1948 cho biết Ủy ban kháng chiến hành chánh huyện đã tổ chức bán quốc trái cho nhân dân, “một hạng 100 đồng, một hạng 500 đồng, một hạng 1.000 đồng. Cuối năm mỗi cổ phần được hưởng 3% lời và cuối 5 năm sẽ hoàn lại cả vốn lẫn lời”.
                Từ đầu năm 1949, để đối phó với sự lớn mạnh của lực lượng kháng chiến và sự mở rộng của vùng căn cứ du kích, địch có những nỗ lực mới: ráo riết tung quân càn quét đồng bằng, dựng lại các hội tề, chấn chỉnh lại hệ thống đồn bốt, tăng cường bảo vệ các đường giao thông, tiếp tục dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, huy động sức của sức người ở những vùng tạm bị chiếm vào cuộc chiến tranh xâm lược. Riêng số lượng đồn bốt của địch đóng trên toàn tỉnh đã là 75 đồn, gồm 42 đồn của Việt binh đoàn và 33 đồn lính Pháp, trong đó ở Phong Điền có đến 6 đồn lính Pháp (Hiền Sĩ, Thanh Tân, Cổ Bi, Mỹ Chánh, 2 đồn ở An Lỗ) và 3 đồn lính ngụy.
                Do biết kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị và binh vận mà cuộc kháng chiến của ta có thêm những thắng lợi mới. Những tháng đầu năm 1949, phối hợp với toàn tỉnh, quân dân Phong Điền làm nên một chiến công lớn, chiếm và đốt đồn Vân Trình vào đêm 18-3-1949, thu 50 khẩu súng các loại.
                 Những chiến thắng của ba tháng đầu năm 1949 trên địa bàn tỉnh chính là cơ sở để Hội nghị Đại biểu Đảng bộ tỉnh họp tại chiến khu Dương Hòa từ ngày 16-4 đến ngày 27-4-1949 quyết nghị những vấn đề quan trọng và toàn diện hơn để đưa sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc tiến lên. Nghị quyết của Hội nghị nêu rõ: “Trong năm 1949, phát huy tất cả mọi lực lượng của nhân dân, đánh mạnh vào địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa; làm cho ta mau mạnh, địch mau yếu. Phát triển Đảng thật mạnh mẽ và đều khắp nơi, củng cố phải đi đôi với phát triển. Bầu cử lại các Hội đồng nhân dân xã, củng cố các đoàn thể cứu quốc và Mặt trận Việt Minh để làm nòng cốt cho Hội Liên Việt, mở rộng chiến tranh du kích, tích cực quấy rối giặc, tiêu hao giặc, tiến tới vận động chiến, mở rộng phạm vi kiểm soát của ta. Triệt để thi hành chính sách giảm tô, tịch thu ruộng đất Việt gian chia cho dân cày nghèo, đồng thời bao vây và phá hoại kinh tế địch, loại đồng bạc Đông Dương trên thị trường ta".
                  Qua tháng 5-1949, tỉnh bắt đầu tập trung các đại đội độc lập để xây dựng tiểu đoàn, trung đoàn tập trung để tiến tới vận động chiến. Trong khi đó, từ tháng 6-1949, địch cũng bắt đầu thực hiện cách đánh kết hợp giữa sự vững chắc của các lô cốt tháp canh với sự kịp thời của các đội quân ứng chiến, đặc biệt là ra sức bắt lính và tiếp tục chấn chỉnh lại hệ thống đồn bốt.
                 Một tháng sau, tại Phong Điền, quân ta làm nên một chiến công lớn. Lần đầu tiên ta đánh tan 1 tiểu đoàn ứng chiến Bắc Phi, tiêu diệt được xe bọc thép lội nước - một loại phương tiện chiến tranh hiện đại mà địch vừa mới đem sử dụng ở Thừa Thiên.
                 Hôm đó là ngày 18-8-1949, địch gồm 1 tiểu đoàn Bắc Phi và 2 đại đội ngụy quân, 6 xe bọc thép lội nước, do Thiếu tá Depointer cầm đầu từ Mỹ Chánh tràn xuống vùng Mỹ Xuyên, Ưu Điềm, tiến hành cuộc càn quét. Dưới sự chỉ huy của Trung đoàn phó Trung đoàn 101 Lê Bá Vận, Tiểu đoàn 227 phối hợp với các Tiểu đoàn 310 và 436, cùng Đại đội 300 địa phương huyện, đã vận động phục kích, chặn đánh các cánh quân của địch. Sau hơn 1 giờ kịch chiến, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 3 đại đội địch, bắt sống Depointer, phá hủy 3 xe bọc thép lội nước, thu 1 súng cối, 1 đại liên 12 ly 7 và hơn 40 súng các loại.

                 Các hoạt động du kích, bao vây quấy rối đồn địch tiếp tục được tăng cường. Các lĩnh vực khác phục vụ cho kháng chiến cũng đi lên. Tháng 8-1949, cử tri của các xã trong huyện tích cực hưởng ứng đợt bầu cử Hội đồng Nhân dân xã. Năm học 1949-1950, chính quyền kháng chiến tổ chức được kỳ thi tốt nghiệp ở Phong Chương và Phong Phú. Cũng trong năm học này, trường trung học kháng chiến Nguyễn Chí Diểu được lập ra, gồm cơ sở phía Bắc đặt tại xã Phong Chương (Phong Điền) và cơ sở ở phía Nam đặt tại xã Mỹ Lộc (Phú Lộc). Năm học đầu trường có 5 giáo viên, 3 lớp đệ nhất và 1 lớp đệ nhị, thu hút trên 300 học sinh các huyện trong tỉnh và các huyện Nam Quảng Trị đến học. Riêng đối với miền núi, sau một thời gian xây dựng phong trào, năm 1949, Huyện ủy Phong Điền đã thành lập chi bộ Đảng ở xã Phong Sơn gồm 6 đảng viên, trong đó có 5 đảng viên là người dân tộc Pahy. Đây là chi bộ Đảng đầu tiên ở miền núi của tỉnh.
             Báo cáo về tình hình các mặt của tỉnh trình Hội nghị đại biểu Đảng bộ tỉnh tháng 4-1949 đã đánh giá về Phong Điền như sau: “Nói chung thì dân chúng tạm đủ ăn, không đói lắm trừ một số ở dọc miền núi như Phong Nguyên, Phong Thái vì chính sách đốt phá của địch có thể bị đói”. “Ở Phong Điền trong 2 năm kháng chiến có đắp được một cái đập (đập Cửa Lác rộng 4 mét) dài 9 cây số lợi thêm hàng ngàn mẫu ruộng, chỉnh đốn lại sự dẫn thủy nhập điền nên một số ruộng được bội thu”. Về thủ công nghiệp, “không phát đạt được mấy trừ nghề đồ gốm, nghề đệm ở Phong Điền được tiến bộ về kỹ thuật nhưng cũng không phát đạt lắm vì sự tiêu thụ quá khó khăn, sự vận chuyển hàng hoá bị địch kiểm soát bắt bớ, cướp bóc”. Về văn hoá, “một vài địa phương có những công tác tự động của các đoàn thể như anh em thanh niên ở Phong Hải tổ chức những lớp dạy đêm cho hội viên”.
           Công văn của Tỉnh trưởng ngụy quyền Thừa Thiên gởi Tổng trấn Trung Phần các ngày 25-3 và 10-5-1949 đã thừa nhận: “thôn quê không được kiểm soát, dân chúng mất hẳn tin tưởng, rất lợi cho sự hoạt động của Việt Minh”. “Tình thế hiện giờ rất nghiêm trọng ở hạt Phong Điền. Việt Minh phá rối ngày đêm, về đến huyện lỵ ở Ưu Điềm để hoạt động... Việt Minh hoạt động rất ráo riết, mà bên ta chỉ có 2 đồn Việt binh đoàn là đồn Vân Trình và Ưu Điềm”. Còn viên Huyện trưởng ngụy quyền ngày 13-7-1949 thì trình lên cấp trên rằng: “Tình hình ở huyện hạt chúng tôi càng ngày càng nghiêm trọng, việc quân sự cho đến hành chánh đều bị đình trệ”. Và Chỉ huy Việt binh đoàn Trung Phần trong tờ trình ngày 19-8-1949 thú nhận: “Huyện Phong Điền trước kia có 5 đồn, nay chỉ còn 1 đồn. Việt binh đoàn đã lùi dần”.
            Bước vào năm 1950, khi hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị đã có được những thắng lợi lớn trong chiến dịch Lê Lai, thì ở Thừa Thiên, Trung đoàn 95 vừa vào đến Phong Điền đã phối hợp với Trung đoàn 101 triển khai trận vận động chống càn ở Phò Trạch, Lương Mai.
            Vùng Lương Mai, Phò Trạch, Phong Chương, Phong Lai là vùng căn cứ du kích phát triển của tỉnh. Mở trận càn với lực lượng 3 tiểu đoàn vào đây, Tướng Le Bris-chỉ huy chiến trường Bình Trị Thiên ngoài việc muốn bình định cho được vùng này còn để nhằm đánh phá dễ dàng chiến khu Hòa Mỹ đang đóng cơ quan chỉ đạo kháng chiến của cả ba tỉnh.
          Ngày 27-1-1950, 2.000 tên địch bắt đầu mở trận càn. Các đơn vị bộ đội địa phương huyện Phong Điền (Thừa Thiên) và Hải Lăng (Quảng Trị) đã nổ súng chặn địch ngay từ đầu.
            Được tin báo trong tình thế bị động, cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 95 và 101 đã phải vượt qua quãng đường gần 20 cây số để tới trận địa. Từ 9 giờ sáng, Trung đoàn trưởng Lê Bá Vận đã chỉ huy các Tiểu đoàn 227, 302, 319, 310 chiến đấu quyết liệt với 3 cánh quân địch tại khu vực chợ Vân Trình và làng Phò Trạch. Mặc dù đã được yểm trợ bằng làn mưa bom của các loại máy bay, các đợt phản kích của địch đều bị đẩy lùi. Cho đến 5 giờ chiều thì quân địch đành phải rút lui. Trận càn bị bẻ gãy, ta tiêu diệt được 130 lính Âu Phi, làm bị thương 150 tên, thu 50 súng các loại và giải thoát được 50 cán bộ bị chúng bắt.
            Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nhận xét rằng: “Trận Phò Trạch - Lương Mai có thể coi là một trận vận động kiểu mẫu trong toàn quốc suốt quá trình phát triển vận động chiến của quân ta ở đồng bằng”.
              Chiến tranh du kích được đà phát triển mạnh. Chỉ riêng trong trận Hồng Lam (Phong Thu), Đại đội 300 và du kích xã Phong Thu đã diệt gọn một trung đội lính ngụy. Tiểu đội nữ du kích xã Phong Thu do Nguyễn Thị Phiên chỉ huy dùng lồ ô vạc nhọn làm vũ khí đánh địch. Chị Nguyễn Thị Phiên và Trần Thị Cầm trở thành nữ chiến sĩ thi đua diệt giặc lập công và được tuyên dương tại Đại hội Chiến sĩ thi đua lần thứ nhất của Liên khu IV. Quan trọng hơn, “vùng căn cứ đồng bằng của huyện đã là nơi đóng quân và triển khai chiến đấu của Trung đoàn 95 và Trung đoàn 101, cơ quan chỉ đạo của Tỉnh ủy ở phía Bắc, cơ quan Huyện ủy, Ủy ban Kháng chiến và các nghành của huyện”.
            Trước sự phát triển của phòng trào kháng chiến, địch lại có thêm những cố gắng mới. Cho đến giữa năm 1950, trên địa bàn Thừa Thiên, địch đã bắt thêm 1.500 lính, đưa tổng số quân ngụy và quân viễn chinh lên đến 5.721 tên. Tính cả ba tỉnh Bình-Trị-Thiên, tổng số quân địch là 13.947 tên. Số lượng máy bay, súng hạng nặng và xe bọc thép lội nước cũng tăng lên.
             Để tiến hành chiến tranh xâm lược thì việc bảo đảm mạch máu giao thông là rất quan trọng. Cần phải có một hệ thống đồn bốt dọc đường 1 và đường sắt, giữ vững được hệ thống đó tức là cắt đôi được Bình-Trị-Thiên ra làm hai phần Đông và Tây, từ đó mà dễ bề đẩy lùi các lực lượng kháng chiến. Vả lại, quân số cũng tạm đủ để chia nhau bảo vệ hệ thống này. Vấn đề là đồn bốt phải được xây dựng thực kiên cố, vững chắc. Đánh địch trong các công sự vững chắc còn là chỗ yếu của chủ lực Việt Minh lúc bấy giờ.
              Với những toan tính đó, Tổng Chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương Carpentier đã cử Tướng Delatour vốn là một kỹ sư cầu cống có tài đến miền Trung, cùng với Tướng Lebris xây dựng một hệ thống lô cốt, đồn bốt mệnh danh là hệ thống Delatour.
              “Đóng rộng ra bên ngoài là những lô cốt bằng bê tông hoặc xây bằng gạch cao từ 3m đến 7m. Mỗi lô cốt, được bố trí thường xuyên một tiểu đội lính ngụy, được trang bị súng trường, một đại liên hoặc trung liên, nhiều lựu đạn. Bên ngoài lô cốt khoảng 20m - 25m có hàng rào dây thép gai bảo vệ, từ trên cao mỗi lô cốt có thể quan sát bằng mắt được từ 3 đến 5km.
            Giữa các lô cốt và trong một vùng hai hoặc ba xã, có một đồn bốt cỡ một trung đội lính ngụy chiếm đóng được trang bị súng trường, tiểu liên, súng máy và súng cối. Mỗi đồn đều có ổ đề kháng kiên cố và công sự phòng ngự. Trong một vùng rộng hoặc nơi xung yếu, giữa các đồn bốt có một đồn lớn được bảo vệ vững chắc, có một hoặc hai đại đội cơ động, có pháo để chi viện cho các đồn bốt hoặc lô cốt trong vùng. Trong mỗi tỉnh có những binh đoàn cơ động của tỉnh hoặc liên tỉnh có nhiệm vụ ứng cứu cho các đồn bốt, lô cốt hoặc lực lượng cơ động các tiểu khu, tổ chức những cuộc hành quân càn quét lớn.
          Tất cả những lô cốt, đồn, bốt, binh lực hỏa lực nói trên liên kết với nhau thành một hệ thống gọi là hệ thống Delatour”.
          Hệ thống Delatour này quả thực đã gây cho ta nhiều khó khăn mới trong việc đi lại, tiếp tế. Bất kỳ chỗ nào trên đường 1 và đường sắt, địch cũng có thể nhìn ra và bắn tới. Chỉ trên một đoạn của đường 1 từ Huế đến Đông Hà địch đã xây dựng 120 lô cốt. Toàn tỉnh có trên 70 đồn bốt lớn nhỏ. Do đi lại, tiếp tế khó khăn trong khi đánh vào lô cốt thì chưa thể, mà nhiều vùng căn cứ du kích ở đồng bằng của ta bị thu hẹp lại.
            Cùng với địch họa, bà con ta từ giữa năm 1950 trở đi còn liên tiếp gánh chịu nhiều thiên tai. Đầu tiên là vụ trái, lúa đã bắt đầu chín rộ nhưng bà con vẫn không được hưởng vì mưa lũ tràn về, cuốn trôi cả lúa má, hoa màu và tài sản. Sau đó là trận lụt lớn xảy ra vào tháng 9. Cách đấy 80 năm chưa từng thấy trận lụt nào lớn như thế. Tại các xã đồng bằng, thiệt hại về người và của là vô cùng lớn (cả tỉnh có hơn 400 người chết và gần 1.000 nóc nhà bị cuốn trôi).
             “Nước ngập suốt bảy ngày đêm liền. Khi nước rút ra thì các cánh đồng nổi tiếng phì nhiêu chỉ còn lại dăm ba đám lúa non ngả màu vàng úa, bị một lớp bùn dày phủ kín lên trên. Mùa màng hư hỏng hết, một vụ đói khủng khiếp nhất định sẽ xảy ra không thể nào tránh khỏi. Dân lo, Đảng lo, chính quyền lo, bộ đội lo... Tất cả xô vào để cứu lấy mạng người. Tất cả bà con đổ ra đồng. Nơi nào không còn trâu bò thì người kéo cày thay. Người khỏe đi trước làm trâu, người già đi sau cầm cày”.
              Khó khăn chồng chất khó khăn như vậy nhưng đã không làm sờn lòng cán bộ, chiến sĩ và nhân dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của quân và dân Phong Điền vẫn có thêm những thành tựu mới, được Hội nghị Đại biểu Đảng bộ tỉnh họp tại Khe Rệ (Hương Trà) từ ngày 2-5 đến ngày 15-5-1950 biểu dương: “Đảng bộ và nhân dân Phong Điền có nhiều thành tích trong nuôi dưỡng quân đội, chu cấp rất nhiều người, nhiều công, nhiều của cho kháng chiến, mua lúa “Cụ Hồ khao quân” nhiều nhất trong toàn tỉnh”.
III. CHIẾN THẮNG THANH HƯƠNG (3 - 1951)
             Đầu năm 1951, chiến trường Bình Trị Thiên là một trong những trọng điểm bình định của địch. Những cố gắng mới của quân đội viễn chinh bằng kế hoạch De Lattre de Tassigny (bố trí lại lực lượng tại các địa bàn quan trọng như Mỹ Chánh, Phong Điền, Quảng Điền, Huế, Truồi, tăng thêm pháo binh ở Phú Ốc, An Lỗ, Phú Bài, liên tiếp mở các trận càn...) đã gây thêm cho ta những khó khăn mới. Hoạt động chống địch lại bị giảm sút.
              Tháng 1-1951, Thường vụ Tỉnh ủy họp. Căn cứ chỗ mạnh chỗ yếu của đôi bên lúc bấy giờ, Tỉnh ủy đã chủ trương đánh từng trận nhỏ để tiến tới trận lớn, thực hiện tốt phương châm đánh nhỏ ăn chắc, giữ vững và khuếch trương đà chiến thắng của bộ đội chủ lực, đồng thời tích cực làm công tác địch vận.
Mở đầu cho hoạt động quân sự của năm 1951 là trận tiến công của Tiểu đoàn 436 (Trung đoàn 101) tiêu diệt hoàn toàn lô cốt An Gia trong hệ thống phòng thủ Phú Ốc - Sịa của địch vào ngày 12-2-1951. Lần đầu tiên ta tiêu diệt một vị trí vững chắc được bố phòng theo đúng hệ thống Delatour của địch. Thắng lợi này có công không nhỏ của khẩu pháo Bô-pho 40 ly mà ta đã chiếm được trong một trận đánh ngày 24-10 năm trước.
            Sau đó, địch cho quân chiếm lại vị trí này, xây dựng vành đai bảo vệ và công sự vững chắc hơn. Đến đêm mồng 2 và sáng ngày 3-3, Trung đoàn 101 lại tiêu diệt vị trí An Gia một lần nữa. Báo cáo hàng tuần về quân sự (từ 1-3 đến 7-3-1951) của Phòng Nhì thuộc Bộ Tham mưu Việt binh đoàn Trung Phần cho biết: “2 giờ 15 phút đêm mồng 2 rạng ngày 3-3-1951, (Việt Minh) bắn trọng pháo và chiếm pháo đài An Gia, đồng thời bao vây pháo đài An Gia phường và đồn Khuông Phò. Đại uý Buffard tử trận”.
             Trên đà chiến thắng, ngày 9-3-1951, Tiểu đoàn 436 phối hợp với một số tiểu đoàn chủ lực và dân quân du kích tổ chức đánh đồn Phổ Lại -một vị trí được địch coi là bất khả xâm phạm. Sự dũng cảm của bộ đội cộng với sự uy lực của những quả đạn ĐKZ đã giúp ta làm chủ được đồn Phổ Lại chỉ sau gần 2 giờ tiến công. Bên địch có 110 tên bị tiêu diệt và bị bắt. Bên ta hy sinh 15 và bị thương 31 người. Ta thu được 80 súng các loại cùng nhiều đạn dược. Chiến thắng An Gia - Phổ Lại đã bẻ gãy tuyến phòng ngự Phú Ốc - Sịa của địch. Vùng giáp ranh giữa Thừa Thiên và Quảng Trị được khai thông.
             Trước những hoạt động mạnh của ta tại khu vực Bắc Thừa Thiên, từ đầu tháng 3-1951, Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Pháp đã ráo riết chuẩn bị cho một cuộc hành quân càn quét lớn. Quân ứng chiến từ Đồng Hới, Đông Hà, đường số 9 và phía Nam Thừa Thiên được gấp rút điều động. Ngày 10-3-1951, địch hoàn thành công tác chuẩn bị và bí mật triển khai cuộc hành quân với trên 2.200 tên, có pháo binh, công binh và máy bay yểm hộ. Tất cả chia làm 2 cánh, hình thành thế trận bao vây vùng Thanh Hương - Vĩnh Xương.
            Cánh thứ nhất gồm 950 tên, do Trung tá Buttin chỉ huy, đánh vào Thanh Hương - Vĩnh Xương. Cánh thứ hai gồm 1.320 tên, do Trung tá Socken cầm đầu, đánh vào Vĩnh An - Ưu Điềm rồi sau đó tiến về hợp quân ở Thanh Hương - Vĩnh Xương.
             Đây là lần đầu tiên trên địa bàn Thừa Thiên địch tổ chức một cuộc hành quân càn quét quy mô lớn và có sự chuẩn bị chu đáo. Ba giờ sáng ngày 11-3, địch quân bắt đầu mở trận càn. Binh đoàn Socken theo đường Mỹ Chánh - Ưu Điềm - Vĩnh An - Vân Trình đánh xuống vùng Thanh Hương - Vĩnh Xương từ hướng Tây và Tây Nam. Binh đoàn Buttin từ thị xã Quảng Trị tiến về Thuận Nhơn, Hội Yên, theo đường 68 đến Diên Khánh rồi chia thành nhiều mũi đánh vào Thanh Hương - Vĩnh Xương từ hướng Bắc và Tây Bắc. Theo kế hoạch, hai binh đoàn này đến trưa hôm đó thì sẽ cùng hội quân ở Thanh Hương.
              Ngay trong đêm mồng 10-3-1951, hai Trung đoàn chủ lực 95 và 101 của Trị - Thiên đều nhận được lệnh và cấp tốc hành quân đến khu vực tác chiến. Mới hôm qua bộ đội ta còn công đồn Phổ Lại, nay phải di chuyển trong đêm 30 cây số đường dài, mà phải kịp đến vị trí trước khi trời sáng. Bộ đội vừa đi vừa chạy trong lúc bụng đói cồn cào, quyết tâm ngăn chặn và tiêu diệt địch, bẻ gãy trận càn.
             Chín giờ sáng ngày 11-3, Binh đoàn Socken đến Phong Lâu, gặp ngay Đại đội 153 của Trung đoàn 95 vừa cấp tốc hành quân tới. Đại đội nổ súng chặn địch rồi rút về Vĩnh An. Socken thúc quân tiến vào. Tại Vĩnh An, các chiến sĩ Trung đoàn 95 đã liên tiếp bẻ gãy 7 đợt tiến công của địch và sau đó tổ chức phản công quyết liệt. Socken cho quân chạy về hướng Ưu Điềm.
             Mười hai giờ trưa hôm đó, Binh đoàn Buttin đến rìa làng Thanh Hương. Tại đây không phải quân của Socken đến hội, mà là các chiến sĩ Tiểu đoàn 319 thuộc Trung đoàn 101 đang chờ. Một trận đọ sức ác liệt đã diễn ra tại đồi Vĩnh Xương nằm giữa hai làng Thanh Hương và Vĩnh Xương, kéo dài cho đến tối. Cuối cùng, khi bộ phận công kích đồi Vĩnh Xương bị thiệt hại nặng, Buttin buộc phải rút lực lượng lui vào giữa làng, đưa sở chỉ huy vào khu nhà thờ Tháp Một tổ chức cố thủ.
            Mờ sáng hôm sau (12-3), Buttin định tháo chạy theo đường 68 về thị xã Quảng Trị, nhưng không thoát được trước sức tiến công dũng mãnh của Tiểu đoàn 436. Trên cánh đồng Thanh Hương, Binh đoàn Buttin bị sa bẫy, kháng cự tuyệt vọng. Trung tá Buttin, 2 thiếu tá, 2 đại úy cùng 600 quân Pháp vĩnh viễn nằm lại trên cánh đồng.
Ngày mai lại (13-3-1951), Binh đoàn Socken bị Trung đoàn 95 đánh hai hôm trước nay quay trở lại phía Thanh Hương. Nhưng khi đến Mỹ Xuyên thì bị đối thủ cũ chặn đánh quyết liệt. Thế là chúng bị dạt ra giữa cánh đồng, mạnh ai nấy chạy. Một số liều mạng chạy ra sông Vân Trình thì đều bị nhận chìm ở đó. Một số chạy dạt ra phía Thuận Nhơn, Quảng Trị thì bị trung đội của đồng chí Mót chặn lại. Tất cả đều giơ tay hàng. Trung tá Socken cũng bị trúng đạn, 300 tên giặc bị loại khỏi vòng chiến đấu. Trận vận động đánh càn Thanh Hương - Mỹ Xuyên của quân và dân Trị - Thiên thắng lợi giòn giã.
           “Một vấn đề cũng khá lý thú là trong trận ấy, chúng tôi không kịp tổ chức tiếp tế hậu cần, không kịp có kế hoạch tải thương, áp giải tù binh về phía sau. Nhưng trên thực tế, từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc trận đánh, mọi việc đều do các đoàn thể quần chúng địa phương làm cả. Chúng tôi chỉ lo có mỗi việc đánh thắng. Tôi nhớ lại lời bà mẹ anh Nguyễn Chí Thanh trong trận Phổ Lại: “đánh thắng thì tha hồ cái gì cũng có”. Đúng vậy, nhân dân gửi gắm tất cả vào chúng ta, làm mọi việc vì chúng ta, chỉ cần chúng ta đánh thắng”.
               Ngày 19-3-1951, Bác Hồ gửi thư khen ngợi: “Tôi thân ái gửi bộ đội và đồng bào Bình Trị Thiên đã thắng một trận khá.
              Thắng lợi ấy là do sự anh dũng của bộ đội, lòng hăng hái của toàn dân và sức đoàn kết của quân dân chính. Nhưng quân và dân ta chớ vì thắng lợi mà chủ quan khinh địch. Trái lại chúng ta phải cố gắng hơn nữa, cẩn thận hơn nữa và phải nhớ rằng chiến lược của ta ở Liên khu 4 vẫn du kích chiến là chính, vận động chiến là phụ, cộng nhiều thắng lợi nhỏ thành thắng lợi to và phải nhớ rằng: kháng chiến là trường kỳ gian khổ rồi mới đến thắng lợi hoàn toàn”.
              Tiếp đến, Tổng Bí thư Trường Chinh, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Tổng Tư lệnh quân đội Võ Nguyên Giáp đã gửi thư, điện khen ngợi, biểu dương trận đánh vẻ vang của Trị Thiên. Ngày 12 tháng 3 trở thành ngày truyền thống của Sư đoàn 325 bộ binh, ngày đánh dấu bước trưởng thành của bộ đội ta trên đất Trị - Thiên khói lửa.
IV. TỪ SAU CHIẾN THẮNG THANH HƯƠNG ĐẾN THÁNG 7-1954
            Trong niềm tin về sự tất thắng của cuộc kháng chiến, Hội nghị toàn Đảng bộ tỉnh tiến hành từ ngày 20 đến ngày 24-7-1951 đã phân tích cụ thể tình hình và đề ra những biện pháp mới. Với chiến thắng Thanh Hương, “tinh thần cán bộ, bộ đội và nhân dân phấn khởi, tinh thần binh lính địch dao động, địch bị đẩy vào thế bị động”, “trong vấn đề xây dựng lực lượng nói chung ta đã tạo được đà chiến thắng cho chủ lực, bộ đội địa phương và cả dân quân xã”. Trên cơ sở quán triệt các Nghị quyết trước đây của Liên khu ủy IV, gần nhất là Nghị quyết Hội nghị Ban Thường vụ Liên khu ủy IV (1-1951), Hội nghị Đảng bộ đã xác định nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh là “củng cố bộ đội địa phương, phát triển dân quân du kích; xây dựng kinh tế tài chính, đặc biệt tăng gia sản xuất bảo đảm cung cấp và cải thiện dân sinh”. Phát biểu bế mạc Hội nghị, Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Húng nói rõ: “trước khó khăn và triển vọng của tình hình mới, chúng ta cần khắc phục khó khăn và phát huy ưu điểm,… phải làm thế nào ngày mai chuyển khó khăn thành thắng lợi”.
             Phát huy chiến thắng Thanh Hương, Đại đội 300 tổ chức tấn công huyện lỵ Phong Điền. Mẹ Cơ cùng con gái là Dương Thị Hoa (làng La Vần) để trang phục của lính ngụy dưới những bó rau, gánh vào giấu tại Phò Ninh. Sáng hôm sau, một trung đội thuộc Đại đội 300 với trang phục của lính ngụy đột nhập vào trụ sở huyện nằm sát đồn An Lỗ, tấn công tiêu diệt 8 lính bảo vệ cùng viên huyện trưởng và đồn trưởng.
Sau Đại hội Đảng bộ tỉnh, Đảng bộ Phong Điền tổ chức Đại hội để triển khai nghị quyết của Tỉnh ủy và bầu cấp ủy mới. Đồng chí Trần Thành được bầu làm Bí thư Huyện ủy. Các cơ quan Huyện ủy và Ủy ban Kháng chiến hành chính huyện vẫn bám sát ở vùng sâu. Cán bộ, đảng viên kiên trì bám đất, bám dân, đẩy mạnh kháng chiến và kiến quốc. Vùng phía trên quốc lộ 1 gần như là vùng tự do của ta. Phía dưới quốc lộ từ Phong Thạnh, Phong Phú đến Hương Hải, Hương Phong dọc tuyến bờ biển địch vẫn không kiểm soát được. “Vùng giữa đồng bằng Phong Chương, Phong Dinh nối sang Quảng Ninh, Quảng Hoà, Quảng Đại (Quảng Điền) và Hương Thái, Hương Toàn (Hương Trà) là khu căn cứ đồng bằng rộng lớn. Địch co lại trong đồn và lô cốt. Bọn tề, điệp một số trốn vào đồn, một số khác ra xin lỗi nhân dân, phục tùng cách mạng. Các chi bộ xã, ủy ban kháng chiến được kiện toàn vững chắc” .
             Kể từ ngày đứng lên kháng chiến, năm 1951 là năm Phong Điền đạt nhiều thành tựu lớn, quân và dân các xã thực sự đã tiến hành một cuộc kháng chiến toàn dân và toàn diện. Nhờ đó, các chủ trương, chính sách của Tỉnh ủy đều được nhanh chóng thực hiện có kết quả, đặc biệt là trong thu thuế nông nghiệp bằng thóc năm 1951 trở đi, 100 % nhân dân đã đóng góp đúng quy định.
            Phong trào kháng chiến trong 2 tỉnh Trị - Thiên lên cao năm 1951 làm cho thực dân Pháp ở vùng đất hẹp này rơi vào tình trạng lúng túng. Để duy trì cuộc “chiến tranh bẩn thỉu”, chúng không còn cách nào khác là vẫn tiếp tục áp dụng chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Cho đến đầu năm 1952, sau nhiều đợt bắt lính, chúng đã xây dựng được 13 tiểu đoàn ngụy quân. Tính chung trong ba tỉnh Bình - Trị - Thiên, số lượng quân địch lên tới 31.459 tên, trong đó khoảng một nửa là quân ngụy. Bản thân Tướng Salan, Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương vào ngày 12-3-1952 cũng đến Huế để xem xét tình hình.
            Địch một mặt tăng quân, mặt khác tăng thêm hỏa lực và phương tiện chiến tranh. Nhiều làng bị chúng triệt hạ để xây dựng hệ thống phòng thủ. Một loạt lô cốt được đóng thêm ở các hành lang quan trọng như Mỹ Chánh, Ưu Điềm. Thủ đoạn càn quét của địch cũng thay đổi, từ hành binh càn quét qui mô lớn chuyển sang qui mô vừa. Trong mỗi cuộc càn, chúng chỉ huy động từ 2 đến 4 tiểu đoàn (cả Âu Phi lẫn ngụy), nhưng liền nhau nhiều trận càn gối đầu hoặc càn cùng một lúc trên diện rộng.
             Ngày 12-3-1952, Tiểu đoàn 436 thuộc Trung đoàn 101 phối hợp với Đại đội 300 của huyện và du kích xã Phong Nhiêu tiêu diệt đồn Sơn Tùng, thu toàn bộ trang bị và vũ khí. Sáng ngày 13-3, khi quân tiếp viện của địch từ ga Phò Trạch vào, bộ đội và du kích đã phục kích thắng lợi, thu trên 200 súng. Qua tháng sau, địch xây dựng lại đồn Sơn Tùng, ta lại đánh, buộc chúng phải rút chạy.
             Để đối phó với sự lớn mạnh của phong trào kháng chiến, địch lại tung ta những biện pháp mới, ngặt nghèo hơn. Ngày 16-8-1952, cầm đầu ngụy quyền Trung Việt là Thủ hiến Lê Quang Thiết cho thành lập “Nghĩa dũng đoàn Trung Việt”, tại mỗi tỉnh có chi đoàn nghĩa dũng, mà nhiệm vụ là “lưu động tại các thôn xã để tìm biết và cản phá kịp thời các tổ chức và hoạt động của đối phương". Đồng thời chúng nâng quân số lên, thành lập 7 tiểu đoàn ứng chiến và 15 tiểu đoàn chiếm đóng. Chúng còn nâng giá gạo ở Huế để hút gạo ở vùng tự do và vùng căn cứ du kích của ta.
             Tiếp đó, trong ba tháng 7, 8 và 9-1952, địch dồn dập mở liền ba cuộc hành quân càn quét lớn (Catherille, Sauterelle, Caiman), tập trung vào hai huyện Phú Vang, Phong Điền với mục đích bình định vùng căn cứ du kích của ta ở đây và tiêu diệt Trung đoàn 101. Riêng trận càn Sauterelle (châu chấu) tháng 9-1952, địch huy động đến 10 tiểu đoàn, 70 xe lội nước, 300 xe tải hành quân dọc phá Tam Giang đến Trung Đồng rồi bao vây Thanh Hương và Vĩnh Xương. Kết quả của ba trận càn là cả địch và ta đều có thương vong lớn. Phía địch có 900 tên bị tiêu diệt. Bên ta trên 1.000 cán bộ, chiến sĩ thuộc Trung đoàn 101 bị thương vong (Trung đoàn trưởng Lê Thuyết hy sinh), 600 đồng bào và 800 thanh niên bị bắt, gần 100 cán bộ địa phương và du kích hy sinh, hơn 120 tấn lúa bị đốt phá, 500 trâu bò bị bắn chết. Một số vùng căn cứ du kích của ta ở Phú Vang, Phong Điền lại bị đặt dưới quyền kiểm soát của địch.
              Nhìn chung, năm 1952 chính là năm đầy khó khăn và thử thách đối với cuộc chiến đấu của quân và dân Thừa Thiên Huế nói chung và Phong Điền nói riêng.
              Ngày 5-1-1953, Trung đoàn 101 cùng với Trung đoàn 18 ra vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh để bổ sung quân số, ổn định tổ chức và xây dựng thành Đại đoàn 325, một trong 6 đại đoàn bộ binh chủ lực của cả nước lúc bấy giờ.
               Qua tháng 2-1953, Tỉnh ủy họp và nhận định sắp tới địch sẽ tiếp tục công cuộc bình định ác liệt hơn, tung quân càn quét mạnh hơn ở các huyện. Vì thế, nhiệm vụ của ta là phải tiếp tục chống bình định, chống càn, đẩy mạnh chiến tranh du kích, trong tác chiến phải phối hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị, địch vận. Trước mắt, bộ đội địa phương của tỉnh sẽ cùng với du kích thôn xã thực hiện ba bám: bám dân, bám địch và bám đồng bằng.
              Mở màn cho cuộc chiến đấu trong năm là những trận phục kích các đoàn xe, đoàn tàu địch trên các đoạn đường Cầu Nhi - Phò Trạch, Mỹ Chánh - Phú Ốc - Sịa. Từ ngày 6 đến ngày 15-1-1953, các trận đánh trên đã làm thiệt hại một đoàn tàu 12 toa, 3 xe cơ giới, 238 tên địch bị tiêu diệt.
              Với một hệ thống đồn bốt, lô cốt còn dày đặc và quân số đông, địch tiếp tục hành quân càn quét trên khắp các huyện Phong Điền, Quảng Điền, Phú Vang và Triệu Phong, Hải Lăng thuộc Quảng Trị. Cùng với việc bắn giết trên bộ là bom cháy từ trên không dội xuống tàn phá mùa màng, nhà cửa. Xóm làng tiêu điều, xơ xác. Cán bộ du kích nhiều ngày phải sống dưới hầm bí mật.
               Tuy có gây cho ta những khó khăn mới, nhưng địch cũng đã phải trả giá đắt. Chỉ tính riêng trong trận càn tại Phong - Quảng mà hợp điểm là Phong Chương - Quảng Thái từ ngày 13 đến ngày 16-3-1953, hằng trăm tên địch đã bị tiêu diệt, 79 tên khác bị bắt sống, 3 xe bọc thép bị phá hủy. Trung đoàn 95 và bộ đội địa phương, dân quân du kích Phong Điền ghi thêm một chiến tích mới.
              Đầu tháng 5-1953, được Mỹ đồng ý và giúp sức thêm, Chính phủ Pháp cử Tướng Henri Navarre sang làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Kế hoạch Navarre ra đời với tham vọng “tạo ra một tình hình quân sự cho phép đưa ra một giải pháp chính trị thích hợp để giải quyết chiến tranh”.
             Tại Bình Trị Thiên, Navarre tiếp tục củng cố các đồn bốt, thúc ép ngụy quyền bắt lính, duy trì thường xuyên các trận càn quét và tăng cường vơ vét vật lực để cung cấp cho chiến trường chính Bắc Bộ. Trong một thời gian ngắn, chúng đã tổ chức thêm 6 tiểu đoàn quân ngụy để thay thế cho 4 tiểu đoàn Âu Phi làm quân tập trung, mở lại các trận càn vào vùng đồng bằng Phong - Quảng, trước mắt là cướp phá vụ lúa của đồng bào vào tháng 5-1953.
              Từ những ngày đầu kháng chiến, việc bảo vệ mùa màng, thóc gạo là một việc làm quan trọng có tính chất sống còn. Trong điều kiện không có ngày nào ngớt khói lửa của bom đạn, bà con ta vẫn ra đồng cày cấy để có lương thực cung cấp cho bộ đội ăn no đánh thắng. Những lần chống càn trước đây đều có mục đích bảo vệ mùa màng và của cải của dân chúng. Lần này chúng ra quân càn quét, cướp phá tàn khốc hơn và ở diện rộng hơn. Trên tất cả các cánh đồng lúa từ Phú Lộc trở ra Phong Điền đều có tiếng súng của bộ đội và du kích chống trả “trận giặc lúa” của địch.
Qua tháng 7-1953, địch lại tung quân càn quét vùng Phong - Quảng. Đặc biệt là kể từ ngày 28-7-1953, Navarre đã huy động một lực lượng khổng lồ chưa từng thấy ở chiến trường Bình - Trị - Thiên để mở một trận càn qui mô lớn, mang tên là cuộc hành binh Camargue (Opération Camargue).
            Về quân số, địch gồm 13 tiểu đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn dù, 2 trung đoàn pháo binh, 400 xe cơ giới, 48 máy bay, 160 xe lội nước, 4 tàu thủy và 14 ca nô. Tất cả đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của viên Tướng tư lệnh quân đội Pháp ở Trung Việt. Ngoài ra còn có thêm sự có mặt của Navarre, trực tiếp đốc chiến. Về mục đích và khu vực càn quét, địch nhằm thu hẹp căn cứ kháng chiến của ta, tiến tới bình định vùng Phong - Quảng - Triệu - Hải (Bắc Thừa Thiên và Nam Quảng Trị), tiêu diệt chủ lực và phá hoại kinh tế của ta, đồng thời qua đó bắt thêm thanh niên vào lính ngụy.
           Theo kế hoạch, toàn bộ lực lượng địch được chia thành 4 mũi mà hợp điểm là vùng Đơn Quế - Đông Dương (Hải Lăng). Khi bố trí xong thế trận và bộ binh đã chốt chặn các ngả đường, địch cho pháo binh, không quân bắn phá dữ dội vào Hòa Mỹ, Phong Thái, dọn đường cho cuộc hành quân. Để đối phó với trận càn, kế hoạch của ta là chỉ để lại Tiểu đoàn 310 để cùng phối hợp với các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh, huyện và du kích thực hiện việc quấy rối, chặn địch, còn phần lớn Trung đoàn 95 sẽ vượt ra ngoài vòng vây, sau đó quay lại tập kích vào nơi sơ hở của địch. Nhân dân ở khu vực xảy ra trận càn được tổ chức cất giấu tài sản và tản cư lên chiến khu.
           Sáng ngày 28-7-1953, bộ binh cơ giới của địch rầm rộ mở trận càn. Ở mọi hướng tiến công của chúng, bộ đội và du kích ta đã kiên trì bám sát chặn địch. Tiểu đoàn 302 chặn đánh cánh quân ở hướng đường số 1. Tiểu đoàn 310 chặn đánh cánh quân ở làng Trung Thạnh. Tiểu đoàn 227 chặn đánh một cánh quân khác ở Phú An. Cuộc chiến diễn ra ác liệt, kéo dài từ sáng cho đến chiều tối. Tuy cả hai bên đều có thương vong nhưng địch vẫn chưa thể tiến đến sông Vân Trình để khép kín vòng vây. Dù đêm đã xuống nhưng viên tướng Pháp trực tiếp chỉ huy trận càn vẫn thúc cánh quân thủy theo bờ sông Vân Trình lên và cho lính dù đổ xuống để cùng bao vây. Những trận giao chiến lại diễn ra quyết liệt. Sáng hôm sau, địch dốc toàn bộ lực lượng đánh mạnh hơn. Cho đến khi địch tiến được vào đến làng Đơn Quế - Đông Dương thì Trung đoàn 95 đã rút đi cả rồi. Mục đích tiêu diệt Trung đoàn 95 của cuộc càn quét đã không thực hiện được. Ngày 5-8, Bộ chỉ huy Pháp đành ra lệnh lui quân, kết thúc trận càn.
            Gần 9 ngày đêm liên tục chiến đấu căng thẳng và ác liệt, ta đã tiêu diệt hơn 400 tên địch, bắt sống 7 tên và làm bị thương 36 tên. Về phía ta, bộ đội và du kích cũng bị tiêu hao lớn. Bộ đội Trung đoàn 95 hy sinh 98 người. Tuy anh dũng chiến đấu nhưng ta chưa phá được âm mưu bình địch của địch. Cơ sở kháng chiến của ta ở nhiều nơi bị tổn thất và bị đánh bật ra ngoài. Phong trào kháng chiến ở Phong - Quảng lại gặp những khó khăn mới. Dân chúng một số làng phải đi tản cư nơi khác, và sau đó lập ra một chợ kháng chiến ở làng Hòa Viện, nơi mà địch cho rằng “hiện nằm trong khu vực ảnh hưởng của Việt Minh, vùng tiền chiến khu Hòa Mỹ, lực lượng quốc gia chưa đến đó được”.
            Tháng 9-1953, Trung đoàn 95 ra vùng tự do Thanh - Nghệ, trở về đội hình của Đại đoàn 325. Lực lượng tác chiến ở Trị Thiên chỉ còn lại bộ đội địa phương và dân quân du kích. Lợi dụng tình hình đó, giặc Pháp mở tiếp một số trận càn nữa, cũng vào bốn huyện Phong - Quảng - Triệu - Hải, đồng thời cho không quân đánh phá ác liệt nhiều nơi, nhất là vào chiến khu Hoà Mỹ và các vùng căn cứ du kích của ta. Kết quả là chúng đã mở rộng thêm vùng chiếm đóng tại hai huyện Phong - Quảng, lập được vành đai trắng dọc theo đường 1, từ Lai Hà đến Mỹ Chánh.
            Trong lúc phong trào kháng chiến gặp khó khăn thì thiên tai lũ lụt lại ập đến. Trong các ngày 23, 24 và 25-9-1953, trên tất cả các dòng sông trong tỉnh, trong huyện nước đều dâng cao, ngập lụt đường sá, nhà cửa, ruộng đồng. Toàn tỉnh có 335 người chết, 6.192 nhà bị đổ, 1.460 nhà bị trôi, 2.000 gia súc bị nước cuốn. Mùa màng, hoa màu bị thiệt hại toàn bộ. Số còn trong nhà cũng bị ướt, mốc. Các hầm bí mật nuôi dấu cán bộ, du kích bị hư hại.
            Cuối tháng 9-1953, Bộ Chính trị họp bàn về nhiệm vụ quân sự trong Đông xuân 1953-1954. Hội nghị đã xác định nhiệm vụ của vùng sau lưng địch - như Bình Trị Thiên - là đẩy mạnh chiến tranh du kích để tích cực phối hợp với chiến trường chính Bắc Bộ. Liên khu 4, Bình Trị Thiên nói chung và Phong Điền nói riêng bắt tay vào việc chuẩn bị mọi mặt để cùng cả tỉnh và cả nước tiến hành thắng lợi cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 lịch sử.
             Ngày 8-11-1953, Hội nghị Cán bộ Bình Trị Thiên xác định nhiệm vụ của 3 tỉnh là: “đẩy mạnh đấu tranh về mọi mặt, nhất là đấu tranh vũ trang để phối hợp với chiến trường toàn quốc và phá hoại âm mưu mới của địch ở Bình Trị Thiên. Nhiệm vụ trước mắt là giữ vững và đẩy mạnh chiến tranh du kích, tích cực chống càn quét”.
             Tại Thừa Thiên Huế, vì đã dồn quân cho mặt trận Trung Lào nên những trận càn của địch chỉ ở qui mô nhỏ và vừa. Bù lại, chúng mở trận càn vào ban đêm. Liên tục vùng Phong - Quảng và phía Nam tỉnh bị chà đi xát lại nhiều lần. Mặt khác, chúng còn ra sức củng cố vành đanh trắng dọc theo đường 1 và tăng cường phòng bị tuyến giao thông đường bộ và đường sắt ngang qua huyện.
             Trong khó khăn và thiếu thốn, cuộc kháng chiến của quân và dân Phong Điền vẫn được tiếp tục. Bộ đội chuyển hướng tiến công hệ thống đồn bốt dọc bờ biển. Chỉ trong vòng một đêm, bộ đội tỉnh và Đại đội 300 của huyện đã nhổ được các đồn của địch ở Lãnh Thủy, Thế Chí Đông và Thanh Hương. Sau đó, bộ đội còn hạ thêm 2 vị trí nữa ở phía Bắc huyện là đồn Vân Trình và lô cốt Hòa Viện. Công tác ngụy vận cũng đạt kết quả tốt. Ngày 15-2-1954, 150 lính ở đồn Đại Lộc làm binh biến, mang theo súng về với nhân dân. Công tác tuyển quân tiến hành thuận lợi. Trong đợt tuyển quân đầu năm 1954, huyện chỉ tuyển 15 tân binh nhưng đã có 150 thanh niên tình nguyện nhập ngũ.
              Ngày 16-4-1954, Thường vụ Liên khu ủy Liên khu IV họp với các Tỉnh ủy, bàn việc đẩy mạnh các công tác phối hợp với đợt 2 chiến dịch Điện Biên Phủ và quyết định: “Đẩy mạnh mọi mặt công tác, tích cực chống càn và tăng cường lãnh đạo chống càn nhỏ để phá kế hoạch bắt lính, cướp của của địch… Đẩy mạnh công tác vùng tạm bị chiếm, đặt biệt là các đô thị tạm bị chiếm, làm cho đông đảo quần chúng đồng tình với lập trường kháng chiến và ngoại giao của ta để đứng về phe kháng chiến, tin tưởng và ủng hộ Hồ Chủ tịch và Chính phủ ta, ủng hộ lập trường của ta trong Hội nghị Genève”.
          Những ngày tháng 4, tháng 5 và sau đó, ở Thừa Thiên Huế tiếp tục vẫn là các cuộc tiến công về quân sự của bộ đội ta và những đợt đấu tranh chính trị của quần chúng, trước mắt để thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy lúc này là khôi phục lại căn cứ ở hai huyện Phong - Quảng, mở rộng khu du kích, và sau đó là để cùng với cả nước giành thắng lợi trong trận đọ sức cuối cùng, khi mà tiếng súng của quân ta đã nổ dòn ở Điện Biên Phủ.
            Ngày 28-4-1954, bộ đội tỉnh tiến công một loạt các lô cốt từ Ưu Điềm đến Vân Trình và trên địa bàn ba xã Quảng Ninh, Quảng Hòa và Quảng Đại (Quảng Điền). Địch bị tổn thất lớn, 200 tên bị tiêu diệt, 1 kho xăng bị đốt. Trên các đường giao thông, ta liên tục chặn đánh địch, không cho chúng cơ động ứng chiến. Du kích các xã đã tiến bộ nhiều trong tác chiến. Du kích Lương Mai liên tục bao vây vị trí địch, buộc chúng phải dùng máy bay để rút quân.
              Ngày 7-5-1954, quân ta thắng lớn ở trận Điện Biên Phủ lịch sử. Đóng góp cho thắng lợi rực rỡ này có phần của quân và dân Thừa Thiên Huế. Cùng với cả nước, những hoạt động quân sự và chính trị không biết mệt mỏi trong Đông xuân 1953-1954 của Thừa Thiên Huế chính “là sự phối hợp chiến lược rộng khắp tạo điều kiện rất thuận lợi cho mặt trận Điện Biên Phủ”.
              Đối với địch, tuy đã thua rất đau ở Điện Biên Phủ, nhưng với Bình Trị Thiên, chúng còn cố gắng tung thêm những trận càn. Không còn là những trận càn nhỏ và vừa mà là qui mô lớn và tàn khốc. Trong hai ngày 28 và 29-5-1954, chúng đưa 400 xe, 2.000 lính Âu Phi, 2 đại đội cơ giới và 10 khẩu pháo 105 ly từ Đà Nẵng ra Huế, Đông Hà. Rồi sáng hôm sau, chúng mở một trận càn lớn, tập trung vào 4 huyện Phong - Quảng - Triệu - Hải và đường số 9. Thế nhưng nỗ lực cuối cùng này của địch đã không thành. Vừa tác chiến chặn địch vừa làm công tác địch vận, quân và dân khu vực Bắc Thừa Thiên và Nam Quảng Trị đã bẻ gãy được trận càn.
              Ngày 5-6-1954, tại xã Phong Thu, 600 người kéo đến đồn địch, đấu tranh đòi trả lúa, trả tiền đã đóng góp để làm lô cốt. Tiến lên một bước, bà con đã tổ chức biểu tình, đòi thực dân phải chấm dứt chiến tranh.
             Ngày 21-7-1954, Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được ký kết tại Genève. Đến ngày 1-8-1954, địch buộc phải ngừng bắn. Ngày 23-8-1954, tại Sơn Quả (Phong Thái), tỉnh tổ chức cuộc mít tinh lớn với hơn 1 vạn người để mừng hoà bình và tiễn đưa cán bộ, chiến sĩ tập kết ra Bắc. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân ta kết thúc thắng lợi. Lịch sử Phong Điền chuyển sang một trang mới.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét