I. ĐẤU TRANH
CHÍNH TRỊ CHỐNG CHÍNH SÁCH “TỐ CỘNG” VÀ XÂY DỰNG CĂN CỨ ĐỊA MIỀN NÚI (1954 - 1959)
Sau hiệp định Genève, Mỹ thay chân thực dân Pháp thống trị
miền Nam, thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành
thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, đồng thời dùng miền Nam làm căn cứ
để tiến công miền Bắc, ngăn chặn phong trào cách mạng thế giới tràn xuống Đông
Nam Á và uy hiếp các nước xã hội chủ nghĩa khác.
Ngày 16-6-1954, Mỹ buộc Bảo Đại đưa Ngô Đình Diệm lên làm
thủ tướng và sau đó dựng ra ở miền Nam chính quyền Việt Nam Cộng hoà, lấy Sài
Gòn làm thủ đô. Lên cầm quyền, Ngô Đình Diệm thi hành một lọat chính sách phản
động, từ chối hiệp thương tổng tuyển cử, tiến hành bầu cử quốc hội lập hiến ở
miền Nam và ban hành Hiến pháp 1956, lập đảng Cần lao nhân vị, phong trào Cách
mạng quốc gia, Thanh niên cộng hòa, Phụ nữ liên đới, đồng thời khủng bố tàn bạo
những người tham gia kháng chiến. Các luật lệ phát xít liên tiếp được ban hành,
tiêu biểu là Luật 10/59 (5-1959), quy định việc thành lập các tòa án quân sự
đặc biệt, đặt những người cộng sản ra ngoài vòng pháp luật.
Ở Thừa Thiên,
ngoài bộ máy ngụy quyền tỉnh, thành phố Huế và các quận, chính quyền Ngô Đình
Diệm còn thiết lập ở Huế một bộ máy cai trị cấp miền (gồm các tỉnh từ Quảng Trị
đến Bình Thuận và các tỉnh Tây Nguyên). Chúng còn chia lại địa bàn hành chính,
thành lập các xã mới. Ngày 20-4-1956, Thủ hiến Trung Việt
ra Nghị định số 711-NĐ/PC, thành lập 6 quận và 2 nha đại diện hành chính ở tỉnh
Thừa Thiên. Quận Phong Điền bấy giờ gồm 9 xã: Phong Sơn, Phong An, Phong Hiền, Phong
Nguyên, Phong Hòa, Phong Bình, Phong
Lộc, Phong Hải và Phong Hương. Trên địa bàn tỉnh, ngụy quyền thiết lập 2 trung
tâm cải huấn, trong đó 1 đặt ở Thanh Tân nhằm đánh vào những người yêu nước,
tham gia kháng chiến. Về quân sự,
ngoài lực lượng chốt đóng tại Hòa Mỹ và ở quận lỵ, ở mỗi xã còn có lực lượng
dân vệ được trang bị vũ khí.
Dưới bàn tay
của bạo chúa Ngô Đình Cẩn, chính quyền Ngô Đình Diệm đã triển khai chính sách
“tố Cộng, diệt Cộng” ở Thừa Thiên hết sức ác liệt nhằm tiêu diệt tận gốc mầm
mống cách mạng trong nhân dân bằng nhiều thủ đoạn thâm độc như “lấy Cộng trị
Cộng”, “thà giết lầm còn hơn bỏ sót”. Tháng 5-1955, địch bắt đầu chiến dịch “tố
Cộng” giai đoạn 1, tập trung vào các căn cứ kháng chiến cũ. Trên địa bàn quận
Phong Điền, chúng tập trung đánh phá các xã có phong trào kháng chiến mạnh như
Phong Thái, Phong Thu, Phong Chương và Phong Phú. Để tránh “bỏ sót” cán bộ cộng
sản, địch mở những cuộc vây bắt tràn lan. Từ tháng 7-1956, Mỹ - Diệm tiến hành
chiến dịch “tố Cộng” giai đoạn 2, tiến hành liên tục các đợt khủng bố hòng phát
hiện cán bộ đổi vùng và cơ sở nội tuyến. Ở các lớp học “tố Cộng”, tay chân Ngô
Đình Cẩn ra sức nói xấu Đảng, xuyên tạc chủ trương, chính sách của cách mạng,
vu khống cán bộ đảng viên cộng sản và bắt phải khai báo, đầu hàng và ly khai
Đảng.
Đối với quần
chúng ở các xã thôn, chính quyền Sài Gòn tiến hành phân chia làm 3 loại để theo
dõi và đưa vào các lớp học “tố Cộng” với mức độ khác nhau. Loại A gồm những
người vừa tham gia kháng chiến và gia đình có con em đi tập kết, học ở quận 3
tháng. Loại B gồm những người có cảm tình với cách mạng, học ở xã hoặc liên xã
1 tháng. Loại C gồm những gia đình có người tham gia ngụy quân, ngụy quyền, học
ở xã trong 10 ngày.
Không thể kể
xiết những thủ đoạn tàn bạo trong khủng bố, giam cầm, tra tấn và giết hại những
người yêu nước, những cán bộ đảng viên cộng sản trong các đợt “tố Cộng” và
trong các nhà giam mọc lên khắp nơi ở Phong Điền. Anh Phan Chí (Phong Thu) bị
treo lên xà nhà và bị đánh cho đến chết. Chị Thái Thị Thiu (Phong Sơn) bị đánh
đến văng thai. Nhiều người bị treo lên cây rồi bị bắn. Nhiều người khác bị giết
bằng những nhác cuốc bổ vào đầu hoặc bị bỏ vào bao tải rồi ném xuống sông v.v..
Thực hiện Nghị
quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 khóa II (7-1954), mà nội dung cơ bản
là chuyển cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam từ đấu tranh vũ trang sang đấu
tranh chính trị, ngày 24-8-1954, Tỉnh ủy Thừa Thiên tổ chức Hội nghị Cán bộ
toàn tỉnh tại chiến khu Hòa Mỹ. Hội nghị đã quyết định một số vấn đề cấp bách
như: kết hợp chặt chẽ đấu tranh hợp pháp và không hợp pháp, lấy hoạt động bí
mật là chính; hình thức và phương pháp đấu tranh phải linh hoạt, kết hợp đấu
tranh chính trị với khẩu hiệu đòi quyền dân sinh dân chủ cho mọi tầng lớp nhân
dân; tuyệt đối không để bộc lộ lực lượng nhưng cũng không vì giữ bí mật, giữ
lực lượng mà thủ tiêu đấu tranh; về địa bàn phải coi trọng cả thành thị và nông
thôn.
Dưới sự lãnh
đạo của Huyện ủy do đồng chí Lê Cương làm Bí thư, nhân dân Phong Điền đã dấy
lên một phong trào đấu tranh sôi nổi đòi địch thi hành hiệp định Genève, chống
khủng bố những người kháng chiến và đòi các quyền dân sinh dân chủ.
Ngày
31-10-1954, khi địch ở đồn Thế Chí Tây mở cuộc trinh sát vào làng, quần chúng
đã đánh mõ báo động vây bắt địch, sau đó kéo đến bao vây đồn và bắt luôn viên
đồn trưởng. Sau đó, vào ngày 13-11-1954, địch cho lính Nghĩa dũng đoàn và Tiểu
đoàn 7 mở cuộc vây bắt cán bộ ta đang họat động ở làng Vĩnh An. Khi một số cán
bộ của ta bị bắt, nhân dân trong làng đã nổi dậy bao vây địch, buộc chúng phải
trả lại.
Cuối năm 1954,
hàng trăm người dân Phong Điền cùng với nhân dân các huyện kéo đến dinh Tỉnh
trưởng đưa kiến nghị đòi đắp đập Thuận An ngăn nước mặn. Ngày 1-5-1955, nhân
dân trong huyện tham gia cuộc mít tinh tại Phu Văn Lâu kỷ niệm ngày Quốc tế Lao
động, đòi chính quyền Sài Gòn hiệp thương tổng tuyển cử, thống nhất đất nước.
Một số nhân sĩ trí thức ở Phong Điền tìm mua tập văn Ngày Mai phát
hành ở Huế để đưa xuống tận các xóm thôn, giúp đồng bào hiểu được thời cuộc và
đẩy mạnh đấu tranh chính trị. Truyền đơn đòi tổ chức tổng tuyển cử, đòi các
quyền dân chủ, chống bắt bớ và khủng bố được rải dọc đường quốc lộ 1 và các bến
xe, trường học, chợ búa. Khi Ngô Đình Diệm trưng cầu dân ý ngày 23-10-1955 để
phế truất Bảo Đại, nhân dân Phong Chương, Phong Thu, Phong Bình, Phong Phú… đã
vứt thùng phiếu tẩy chay, đồng thời tổ chức mít tinh, diễn thuyết vạch trần bộ
mặt bán nước của ngụy quyền.
Trong cuộc đấu
tranh quyết liệt chống chính sách “tố Cộng” đã xuất hiện rất nhiều tấm gương
bất khuất của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Anh Phan Lạc bị địch đóng đinh vào
mắt cá chân vẫn kiên quyết chịu đựng. Cụ Dẫn bị buộc phải vào khu tập trung ở
quận lỵ vẫn giữ ảnh Bác Hồ hơn 20 năm. Tại xã Phong Thu, địch bắt nhân dân đốt
đuốc lùng cán bộ, nhưng nhân dân lại tìm cách báo cho cán bộ thoát khỏi vòng
vây kẻ thù.
Sau chiến dịch
“tố Cộng” giai đoạn 2 của địch, các huyện ủy, xã ủy tan vỡ gần hết. Trên hai
tỉnh Trị - Thiên, đến cuối năm 1958 chỉ còn 160 so với 23.400 đảng viên trước
đó. Từ 5.000 đảng viên trong kháng chiến chống Pháp, đến năm 1956, huyện Phong
Điền chỉ còn lại một chi bộ miền núi với 6 đảng viên và 8 đảng viên ở đồng bằng.
Mặc dầu vậy, nhân dân Phong Điền vẫn một lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng. Những kỷ vật do bộ đội Cụ Hồ trao tặng, đồng bạc tài chính có in ảnh Hồ
Chủ tịch vẫn được nhân dân cất giấu, giữ gìn.
Tháng 11-1957,
Tỉnh ủy Thừa Thiên họp hội nghị tại bản Ấp Rùng, xã Thượng Long (miền Tây Phú
Lộc). Sau khi phân tích tình hình, thế và lực giữa ta và địch trong toàn tỉnh,
hội nghị quyết định xây dựng miền núi Thừa Thiên thành căn cứ địa cách mạng, sử
dụng và phát huy vai trò của miền núi đối với phong trào cách mạng trong toàn
tỉnh. Tỉnh ủy nhấn mạnh một số công việc cần tập trung thực hiện: chính sách
bình đẳng dân tộc, đoàn kết Kinh Thượng; chú trọng công tác xây dựng cơ sở, đào
tạo cán bộ tại chỗ; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; huy động
nhân dân nuôi dưỡng, bảo vệ cán bộ và tham gia sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.
Từ cuối năm
1957, các Huyện ủy viên và cán bộ còn lại của Phong Điền chuyển hướng hoạt động
lên miền núi. Trong công tác xây dựng miền núi thành căn cứ địa của huyện, các
đồng chí đã bám địa bàn, hoà mình với đồng bào dân tộc, tự nguyện để tóc dài,
đóng khố và nói tiếng địa phương, như các đồng chí Nhà Hoài, Quỳnh Meo v.v..
Nhiều gia đình người dân tộc đã hết lòng nuôi dưỡng, bảo vệ cán bộ, đồng cam
cộng khổ để vượt qua cơn khó khăn trước mắt.
Kết quả là
trong năm 1957, ở miền núi của huyện một số cơ sở được xây dựng và kết nạp thêm
đảng viên. Nhân dân tổ chức ăn thề giữa các thôn bản, nguyện đoàn kết một lòng
bảo vệ bản làng, bảo vệ cách mạng. Qua năm 1958, miền núi Thừa Thiên đã có 15
chi bộ và 60 đảng viên. Phong trào đấu tranh chống địch gom dân và lập làng bản
chiến đấu trở nên sôi nổi, quyết liệt. Ở Ba Đa, Khe Tre (vùng núi Phong Điền),
nhân dân đã phá trại tập trung và trở về làng cũ.
Từng bước,
phong trào đấu tranh chính trị kết hợp đấu tranh vũ trang tự vệ bằng vũ khí thô
sơ đã nảy sinh. Nhân dân gài chông, đặt bẫy dưới hình thức hợp pháp là chống
thú rừng, bảo vệ nương rẫy, bản làng. Trên cơ sở phong trào quần chúng, ở miền
núi đã hình thành các tổ chức tự vệ nhân dân và du kích mật làm nòng cốt cho
hoạt động vũ trang.
Giữa lúc phong
trào cách mạng miền núi có những bước chuyển biến quan trọng thì Nghị quyết 15
(1-1959) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) về đường lối cách mạng
miền Nam được truyền đến. Nghị quyết chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền
Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực
hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh. Nghị quyết nêu rõ: “Con đường phát triển cơ bản của
cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
Theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng thì con đường đó là lấy
sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu,
kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong
kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”.
Tháng 7-1959,
Tỉnh ủy Thừa Thiên mở hội nghị tiếp thu Nghị quyết 15 tại thôn Cà Chê (xã Hương
Sơn, huyện Nam Đông). Hội nghị đánh giá tình hình và kiểm điểm sự lãnh đạo của
Tỉnh ủy từ sau Hiệp định Genève, rút ra những bài học kinh nghiệm và quyết định
nhiệm vụ chính trị của tỉnh trong tình hình mới:
-Nhanh chóng
quán triệt Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng đến cán bộ, đảng viên, cơ sở cốt
cán và quần chúng cách mạng, làm cho mọi người hiểu rõ Đảng sẽ lãnh đạo nhân
dân tiến hành cách mạng bằng bạo lực quần chúng kết hợp lực lượng võ trang,
khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
-Phát động đợt
“thức tỉnh quần chúng đồng bằng”, dựng lên từng người, nhen lên từng nhóm, khôi
phục từng xóm thôn.
-Tiếp tục lãnh
đạo quần chúng đấu tranh cho quyền lợi dân sinh, dân chủ, nâng dần lên giác ngộ
dân tộc, giai cấp. Qua đấu tranh xây dựng thực lực cách mạng mà khôi phục sự
lãnh đạo đối với quần chúng.
-Chú trọng xây
dựng Đảng, coi đó là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và thường xuyên của cấp ủy.
Tổ chức cơ sở Đảng phải đảm bảo tinh, gọn, bí mật, ngăn cách, nâng cao cảnh
giác cách mạng, bảo vệ Đảng, đề phòng sự xâm nhập phá hoại của bọn gián điệp,
bọn đầu hàng, phản bội.
Hội nghị củng
cố lại Tỉnh ủy gồm 15 người. Đồng chí Ngô Lén (Hà) được cử làm Bí thư Tỉnh ủy,
đồng thời tiếp nhận 15 cán bộ quân sự, 13 chiến sĩ đặc công, 8 chiến sĩ trinh
sát, từng bước hình thành khung ban quân sự tỉnh.
Triển khai Nghị
quyết 15, Huyện ủy Phong Điền được kiện toàn, do đồng chí Lê Thành Hinh làm Bí
thư. Ở các xã Phong Sơn, Phong An và Phong Hiền kết nạp thêm đảng viên mới. Sau
đó, thực hiện chủ trương “thức tỉnh quần chúng đồng bằng”, trong các đêm 23 và
26-12-1959, cán bộ chiến sĩ đã vượt qua các hệ thống bố phòng của địch, treo cờ
Đảng, cờ Tổ quốc và rải truyền đơn ở nhiều nơi trong huyện như Phò Trạch, Ưu
Điềm, An Lỗ.
II. ĐỒNG KHỞI MIỀN NÚI VÀ ĐỒNG BẰNG,
PHÁ “ẤP CHIẾN LƯỢC” VÀ MỞ RA VÙNG GIẢI PHÓNG (1960 - 1964)
Thực hiện Nghị
quyết Hội nghị Liên khu ủy 5 (tháng 4, 5-1960) là “củng cố, mở rộng và nối liền
các trung tâm căn cứ, tiến lên thực sự làm chủ ở rừng núi” , tháng
10-1960, Tỉnh ủy chủ trương phát động đồng khởi miền núi, giành chính quyền về
tay nhân dân, qua đó góp phần phát triển đường giao thông chiến lược và xây
dựng miền núi thành căn cứ địa vững chắc của toàn tỉnh. Ban Cán sự miền núi mở
lớp tập huấn cho 30 cán bộ tại làng Gôn, xã Thượng Long (Nam Đông), thảo luận
chủ trương, biện pháp phát động quần chúng, xác định kế hoạch đồng khởi cụ thể
của từng xã, nhất là hai xã đột phá điểm Hương Lâm và Phong Lâm (A Lưới).
Sau khi dự lớp
tập huấn 22 ngày, cán bộ, đảng viên Phong Điền đã khẩn trương bắt tay vào việc,
tích cực chuẩn bị cho cuộc đồng khởi ở các xã miền núi.
Đêm 18-10-1960,
cán bộ cùng du kích xã Phong Lâm bí mật về Khe Tranh tiến hành diệt ác, trừ
gian và cảnh cáo một số tên tay sai, đồng thời phát động nhân dân nổi dậy giành
quyền làm chủ. Cùng lúc, du kích tiến công trụ sở xã Hương Lâm, bắt gọn một
trung đội địch. Hơn 2.000 đồng bào Hương Lâm đã mít tinh, tố cáo tội ác của Mỹ
- Diệm và tuyên bố chính quyền về tay nhân dân.
Tháng 12-1960,
Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Tây và các xã được thành lập. Trong số
18 căn cứ ở miền núi trước đây, địch phải rút bỏ hết 15, chỉ còn lại 3 vị trí
Nam Đông, A So và Khe Tre. Từ căn cứ địa miền núi, các Huyện ủy viên toả về
đồng bằng móc nối thêm cơ sở. Một số cơ sở cách mạng và chi bộ Đảng được xây
dựng ở các xã Phong Nguyên, Phong Hiền, Phong Hoà và Phong Sơn. Ở Phong An và
Phong Sơn có 10 thanh niên thoát ly, tham gia cách mạng.
Từ năm 1961, để
đối phó với cách mạng miền Nam đang trên đà phát triển mạnh, nhất là từ sau
phong trào đồng khởi của quân và dân ta, Mỹ đã đề ra chiến lược “chiến tranh
đặc biệt”. Thực hiện chiến lược này, ở Thừa Thiên Huế, Mỹ - Diệm ra sức bình
định đồng bằng, lập phòng tuyến ngăn chặn ở Bắc đường 9 và Tây Trị - Thiên,
đồng thời tập trung đánh phá miền núi và tuyến đường vận chuyển chiến lược
Trường Sơn.
Hòng bình định đồng bằng, dập tắt phong trào kháng chiến,
tách nhân dân ra khỏi cách mạng, triệt hạ nguồn tiếp tế và làm mất chỗ ẩn náu
của cán bộ và du kích, Mỹ - Diệm đã thực hiện rào làng, dồn dân để lập ra các
ấp chiến lược trên khắp các xã trong huyện. Theo Mỹ - Diệm, quốc
sách “ấp chiến lược” là một cuộc chiến tranh tổng
lực trên các mặt, từ chính trị, quân sự, kinh tế đến tâm lý, xã hội và gián
điệp nhằm mục đích tiêu diệt các cơ sở cách mạng ở hạ tầng, đẩy du kích ra khỏi
thôn ấp, qua đó xiết chặt ách kìm kẹp đối với dân chúng. Mỗi gia đình ở Phong
Điền phải nộp 20 cây tre và 60 cái chông, bỏ mọi công việc để rào làng lập ấp
chiến lược. Sống trong ấp bị bao bọc bởi thế trận 3 núi 2 sông (3 luỹ tre cao
và 2 hào sâu) cùng với chông mìn, tháp canh và sự kìm kẹp chặt chẽ, nhân dân
phải trải qua những ngày tháng như trong ngục tù.
Cùng với hệ thống ấp chiến lược, Mỹ - Diệm cho tăng cường
xây dựng ngụy quân cả quân chính quy và quân địa phương. Thường xuyên ở quận lỵ
có một đại đội địa phương quân chốt đóng và nhiều trung đội lính nghĩa quân ở
khắp các xã. Ngoài ra, chúng còn tiến hành quân sự hóa thanh niên dưới các danh nghĩa như
“Thanh niên xung kích”, “Thanh niên cộng hòa”, “Thanh niên bảo vệ hương thôn”
để phục vụ cho việc bình định.
Để kịp thời
lãnh đạo cuộc đấu tranh chống chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, từ ngày
21 đến ngày 26-4-1961, Đại hội Đảng bộ Thừa Thiên Huế đã họp tại làng Ta Pat
(các đồng chí Nguyễn Văn Minh, Cao Chánh Hạo, Nguyễn Thắng là đại biểu của
Phong Điền trong số 52 đại biểu tham dự). Quán triệt đường lối cách mạng miền
Nam do Nghị quyết Đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ III của Đảng vạch ra và
Nghị quyết của Liên Khu ủy (2-1961), Đại hội đề ra nhiệm vụ là phải nhanh chóng
phát triển lực lượng, tiến công từ rừng núi xuống đồng bằng, đẩy mạnh tuyên
truyền và hoạt động vũ trang, phá tan ấp chiến lược, diệt ác trừ gian, xây dựng
cơ sở chính trị rộng rãi trong quần chúng, kiên quyết giành dân, giành quyền
làm chủ, đưa chiến tranh cách mạng phát triển lên một bước. Về phương châm đấu
tranh, Đại hội xác định lấy đấu tranh chính trị là chủ yếu, kết hợp chặt chẽ
với đấu tranh vũ trang và sử dụng song song hai hình thức đấu tranh chính trị
và quân sự; ở miền núi lấy đấu tranh quân sự là chủ yếu, vùng giáp ranh và đồng
bằng đẩy mạnh đấu tranh chính trị, nhanh chóng tạo thế liên hòan giữa ba vùng
chiến lược.
Sau Đại hội,
Huyện ủy Phong Điền do đồng chí Nguyễn Văn Minh làm Bí thư đã tổ chức vũ trang
tuyên truyền ở các xã Phong Sơn, Phong An, Phong Hoà, Phong Bình và Phong
Chương. Bên trong các ấp chiến lược bắt đầu có cán bộ bám trụ, xây dựng cơ sở
bí mật. Đại đội K 105 của tỉnh, trong đó có 18 thanh niên trong huyện, do đồng
chí An và Đăng chỉ huy đã hoạt động có kết quả, liên tục phá rào các ấp chiến
lược ở Phong Chương, Phong Bình, Phong Sơn và Phong An.
Tháng 8-1961,
bộ đội địa phương và du kích miền núi Phong Điền đánh tan một tiểu đội địch ở
Tam Dần, đánh dấu một trong những hoạt động vũ trang đầu tiên của tỉnh giành
được thắng lợi.
Từ thành công
của hoạt động vũ trang tuyên truyền, nhân dân các xã đấu tranh trì hoãn việc
nộp vật liệu rào làng, chậm trễ trong công việc hoặc rào ấp không đúng quy
cách.
Cho đến cuối
năm 1961, Huyện ủy đã được củng cố và hoàn chỉnh hơn, chi bộ cơ sở được xây
dựng ở hầu khắp các xã, cơ quan Huyện ủy đã có một số bộ phận chuyên trách như
văn phòng, tuyên truyền, quân sự v.v.. Đầu năm 1962, Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị
biểu dương và rút kinh nghiệm đấu tranh chính trị của 3 huyện phía Bắc tại xã
Hương Hữu (Hương Trà). Báo cáo của đồng chí Thắng về ba cuộc đấu tranh chính
trị ở xã Phong An và báo cáo của đồng chí Khư về cuộc đấu tranh chống ách kềm
kẹp của địch ở Trạch Phổ là những báo cáo điển hình của Phong Điền trước Hội
nghị.
Sang năm 1963,
cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Phong Điền có bước chuyển biến đi lên.
Đêm mồng 3 rạng ngày 4-3-1963, đơn vị K 105 được nhân dân hỗ trợ đột nhập vào
ấp chiến lược Hòa Mỹ, một trong những ấp chiến lược được địch xếp vào lọai
“kiểu mẫu” ở Thừa Thiên, có hai tiểu đội chuyên trách luân phiên đảm nhiệm việc
kiểm soát nghiêm ngặt nhân dân ra vào ấp làm ăn, đồng thời kiểm soát người và
phương tiện qua lại trục lộ. Nhân dân đã nổi dậy phá tan các hàng rào, tổ chức
mít tinh hoan nghênh lực lượng vũ
trang cách mạng.
Tuy phải thường xuyên đối phó với những cuộc hành quân bố
ráp của địch và chịu thương vong, nhưng số lượng các cơ sở cách mạng vẫn không
ngừng tăng lên với 196 cơ sở và kết nạp thêm 5 đảng viên.
Tháng 5-1963, khi phong trào đấu tranh của nhân dân Thừa
Thiên Huế nổ ra quyết liệt chống kỳ thị và đàn áp Phật giáo của chính quyền Sài
Gòn, Huyện ủy Phong Điền đã lãnh đạo nhân dân hưởng ứng và xây dựng được 6 cốt
cán ở Huế. Đến tháng 11-1963, khi chế độ độc tài phát xít Ngô Đình Diệm bị sụp
đổ, Huyện ủy đã kịp thời thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy là tận dụng cơ hội
tốt để tập trung đánh phá ấp chiến lược.
Mười bốn cán bộ vũ trang đã qua tập huấn được huy động, do
đồng chí Lê Sáu (Bí thư Huyện ủy) và đồng chí Hường (cán bộ quân sự) trực tiếp
chỉ huy bắt đầu triển khai đánh địch. Đêm mồng 2-11-1963, quân ta tấn công hai
ấp Thanh Tân và Sơn Quả, đánh bật 2 trung đội dân vệ và làm chủ hai ấp suốt
ngày hôm sau. Chiều ngày 3-11, khi địch đưa 7 xe tăng lội nước M 113 và hai đại
đội bộ binh đến, ta đã anh dũng đánh trả, tiêu diệt được 22 tên địch và thu 10
súng.
Cũng trong đêm mồng 2-11-1963, các đội vũ trang công tác đã
tiến công đồng loạt vào các ấp chiến lược ở Công Thành, Hiền An, Phổ Lại, Xuân
Điền Lộc, Hương Hội Trại, Đông Lâm, Bắc Thạnh và Phò Ninh. Một số tên ác ôn bị
trừng trị. Đến ngày 27-11-1963, lực lượng vũ trang công tác tấn công địch ở
Phong Chương, tổ chức mít tinh phát động quần chúng phá thế kềm kẹp của Mỹ -
ngụy.
Trên đà
phát triển của cuộc kháng chiến, Tỉnh ủy quyết định phát động một đợt tiến công
địch, nổi dậy phá ấp chiến lược, giành quyền làm chủ, mở rộng vùng giải phóng
trong tỉnh. Thời gian tiến hành đồng khởi nông thôn đồng bằng được ấn định là
vào dịp kỷ niệm 10 năm ký kết Hiệp định Genève (7-1954 - 7-1964). Tỉnh ủy chọn
Phong Điền làm trọng điểm chỉ đạo để phát động đồng khởi trong toàn tỉnh và lấy
xã Phong Sơn làm điểm để rút kinh nghiệm. Ban Chỉ đạo khởi nghĩa Phong - Quảng
được thành lập và họp bàn ở Phong Sơn để lên kế hoạch cụ thể.
Đêm mồng 5 rạng
ngày 6-7-1964, cùng với phong trào đồng khởi diễn ra khắp vùng đồng bằng trong
tỉnh, nhân dân nhiều xã ở Phong Điền đã đồng loạt nổi dậy, phối hợp với bộ đội
và các đội công tác võ trang tiến công địch, phá ấp chiến lược, xóa bỏ ngụy
quyền, tuyên bố thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở cơ sở và chính quyền tự
quản của nhân dân. Một vùng giải phóng rộng lớn gồm các xã Phong Sơn, Phong An,
Phong Hòa, Phong Bình, Phong Chương được hình thành.
Ngày 6-7-1964,
địch điều động một lực lượng lớn đánh chiếm lại Phong Chương. Tuy chênh lệch
lớn về quân số, nhưng ta đã kiên cường đánh địch phản kích, gây cho chúng tổn
thất nặng nề. Phong Chương trở thành ngọn cờ đầu đồng khởi không chỉ của Phong
Điền mà còn tiêu biểu cho phong trào quần chúng nổi dậy tiến công địch để giành
và giữ chính quyền, làm chủ nông thôn đồng bằng từ những ngày đầu đồng khởi ở
Thừa Thiên Huế.
Từ thắng lợi
của phong trào đồng khởi, các chi bộ Đảng và lực lượng du kích phát triển mạnh.
Riêng ở Phong Sơn có đến 147 đội viên du kích được huấn luyện quân sự, chính
trị và trang bị vũ khí, sẵn sàng phối hợp với bộ đội bảo vệ vùng giải phóng.
Cán bộ Huyện ủy và các đơn vị bộ đội tỉnh bám trụ chắc ở đồng bằng. Đại đội địa
phương Phong Điền tăng cường về quân số với trên 100 cán bộ, chiến sĩ.
Hoà nhịp với
phong trào đấu tranh quân sự và đấu tranh đô thị trong toàn tỉnh, vào tháng
12-1964, hàng ngàn chị em trong “đội quân tóc dài” ở các xã Phong Hòa, Phong
Bình, Phong Chương, Phong An, Phong Sơn, Phong Thu đã bao vây quận lỵ Phong
Điền tại Phò Trạch để phản đối việc địch càn quét, chống bắn pháo vào làng,
chống bắt bớ, đánh đập người dân vô tội và đòi tự do làm ăn, buôn bán. Cuộc đấu
tranh kéo dài suốt 8 ngày làm tắc nghẽn tuyến giao thông Huế - Quảng Trị. Đây
là cuộc đấu tranh có quy mô lớn, có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, có sự chỉ
đạo chặt chẽ của các cấp ủy Đảng và đã giành được thắng lợi to lớn. Viên Quận
trưởng Phong Điền đứng ra xin lỗi và ký giấy cam kết thực hiện những yêu sách
của nhân dân.
Thắng lợi của
phong trào cách mạng ở nông thôn và đô thị đầu năm 1964 còn tác động đến tinh
thần hàng ngũ ngụy quân. Các trung đội lính ngụy ở Phong Hòa, Phong Chương đã
vác súng trở về với nhân dân, một số tham gia đội công tác võ trang tại các xã.
III. ĐẨY MẠNH KHÁNG CHIẾN, MỞ RỘNG VÀ
CỦNG CỐ VÙNG GIẢI PHÓNG, TIẾN LÊN TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY (1965 - 1968)
Từ giữa năm
1965, Mỹ bắt đầu thi hành chiến lược “chiến tranh cục bộ” để thay cho
chiến lược “chiến tranh đặc biệt” đã bị phá sản. Quân viễn chinh Mỹ và quân một
số nước phụ thuộc Mỹ ồ ạt đến miền Nam, kéo theo sự gia tăng rất lớn các vũ khí
và phương tiện chiến tranh hiện đại của Mỹ. Trị-Thiên Huế trở thành một trong
những chiến trường trọng điểm của Mỹ-ngụy trong cuộc “chiến tranh cục bộ” với
quy mô bình định và cường độ đánh phá ác liệt hơn nhiều so với trước.
Tại Thừa Thiên
Huế, Phú Bài trở thành căn cứ đầu tiên của quân đội viễn chinh Mỹ. Từ cuối năm
1965 đến đầu năm 1966, Mỹ tăng cường lực lượng, cơ sở vật chất, kỹ thuật quân
sự cho căn cứ này đồng thời thiết lập thêm một số căn cứ khác, trong đó có căn
cứ Đồng Lâm thuộc địa bàn các xã Phong Sơn, Phong An và Phong Nguyên. Quân viễn
chinh Mỹ bắt đầu trực tiếp hành quân càn quét ở đồng bằng với chiến thuật
“thiết xa vận”, dùng xe bọc thép M 113 hỗ trợ cho quân đội Sài Gòn bình định
vùng nông thôn. Trong các tháng 6, 7 và 8-1965, với quân đông và phương tiện
chiến tranh hiện đại, kết hợp chính sách đánh huỷ diệt, tuyên bố đặt ba xã
Phong Sơn, Phong An và Phong Nguyên trong tình trạng tự do bắn phá , địch
đã lấn chiếm lại một số thôn của ta ở đồng bằng. Sự nghiệp kháng chiến của nhân
dân trong huyện đứng trước sự thử thách lớn.
Ngày 25-7-1965,
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên họp tại vùng núi huyện Hương Trà. Đại
hội biểu dương nhân dân các huyện đã đồng khởi năm 1964 thắng lợi, trong đó có
Phong Điền và các xã Phong Chương, Phong Sơn. Trên cơ sở phân tích tình hình
của tỉnh từ khi Mỹ leo thang chiến tranh, thi hành chiến lược “chiến tranh
cục bộ”, Đại hội quyết định thành lập các đơn vị diệt Mỹ và vành đai diệt Mỹ
trong toàn tỉnh, trong đó có vành đai diệt Mỹ Sơn - An - Nguyên ở Phong Điền.
Tháng 11-1965,
Tiểu đoàn 806 có sự phối hợp của lực lượng vũ trang huyện tấn công 1 tiểu đoàn
quân ngụy ở xã Phong Sơn, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên địch và diệt một
số xe tăng Mỹ. Tháng 5-1966, bộ đội trực tiếp tấn công 1 tiểu đoàn lính Mỹ ở
Phong Chương, làm thương vong hàng trăm tên. Tháng 12-1966, quân ta tấn công
căn cứ An Lỗ, phá sập cầu và cắt đứt đoạn giao thông Huế - Tứ Hạ - An Lỗ.
Phối hợp tác
chiến với bộ đội, lực lượng du kích các xã liên tiếp quấy rối và đánh phá chính
sách bình định của địch ở Phong Thu, Phong Hoà, Phong Hiền. Đặc biệt, du kích
Phong Chương và Phong Sơn lần đầu tiên bắn rơi máy bay ném bom B57 của Mỹ.
Trong phong trào thi đua đánh Mỹ đã xuất hiện hàng trăm dũng sĩ diệt Mỹ, tiêu
biểu như Nguyễn Thị Tiễn, Nguyễn Thị Kha, Hoàng Công Thành, anh Huy, anh Na
v.v..
Vành đai diệt
Mỹ Sơn - An - Nguyên được thiết lập với Ban Chỉ huy gồm 7 đồng chí (đồng chí Ủy
viên Thường vụ Huyện ủy là Huyện đội trưởng và Bí thư, Xã đội trưởng các xã
Phong Sơn, Phong An và Phong Nguyên). Với một địa bàn rộng lớn nằm dọc chân núi
Trường Sơn và phía Tây quốc lộ 1, kéo dài từ Bắc sông Bồ đến Nam sông Mỹ Chánh,
vành đai có nhiệm vụ vây ép, tiêu hao, tiêu diệt lực lượng và phương tiện chiến
tranh của Mỹ ở căn cứ Đồng Lâm, chặn đánh quân viễn chinh Mỹ đi càn quét, đồng
thời hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng.
Cho dù giặc Mỹ
liên tục ném bom bắn phá với mức độ huỷ diệt với âm mưu biến khu vực này thành
vành đai trắng, vành đai diệt Mỹ Sơn - An - Nguyên vẫn bất khuất đứng vững. Lực
lượng vũ trang và du kích ba xã Phong Sơn, Phong An và Phong Nguyên đã đánh
hàng trăm trận, loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên địch và phá huỷ một
khối lượng lớn phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy.
Ca ngợi chiến
công của vành đai diệt Mỹ Sơn - An - Nguyên, báo Quân giải phóng Trị - Thiên -
Huế đã viết: “Chọi với một đội quân được trang bị vũ khí hiện đại, với máy bay
phản lực và đại bác của giặc Mỹ, du kích Sơn - An - Nguyên đã phát huy cao độ
uy lực của chông mìn, súng trường, lựu đạn sẵn có và bằng cả vũ khí tự tạo,
chung quanh các đơn vị địch, trên các ngả đường vào thôn, trong từng khe cửa,
góc nhà, bờ tre, sườn đồi... đâu đâu cũng có thể là mồ chôn xác giặc” .
Tháng 6-1966,
tại Cầu Nhi ngay trên đường số 1 (địa phận giữa quận lỵ Phò Trạch và Mỹ Chánh)
diễn ra trận giao thông chiến táo bạo của một đơn vị thuộc Trung đoàn 6. Trong
vòng 30 phút, bộ đội đã đánh tan 23 xe chở quân địch, tiêu diệt gần 1 tiểu đòan
cơ động chiến lược ngụy.
Trên toàn miền
Nam và trong tỉnh, để đối phó với phong trào kháng chiến ngày một lên cao của
quân và dân ta, Mỹ - ngụy bắt đầu cho thành lập các đoàn bình định để đẩy nhanh
kế hoạch bình định vùng nông thôn. Ở Phong Điền, một số đoàn bình định (mỗi
đoàn khoảng trên dưới 40 tên) đến các xã, tăng cường kiểm soát dân chúng.
Ngày
19-11-1967, Khu ủy, Quân khu ủy Trị - Thiên nhận chỉ thị của Bộ Chính trị và
mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng về tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong toàn miền
Nam vào dịp Tết Mậu Thân (1968). Bản mệnh lệnh xác định Huế là một trong hai
chiến trường trọng điểm của miền Nam (Sài Gòn - Huế).
Ngày 3-12-1968,
Thường vụ Khu ủy họp tại Khe Trái (Hương Trà) và nêu quyết tâm: “Tập trung lực
lượng chủ yếu của Quân khu, của đông đảo quần chúng, bí mật, bất ngờ công kích
khởi nghĩa, tiêu diệt toàn bộ cơ quan đầu não, chiếm lĩnh thành phố Huế, đồng
thời phát triển thắng lợi tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ ngụy quân, ngụy quyền
thiết lập chính quyền cách mạng. Phấn đấu trong 7 ngày đêm hoàn thành mọi mục
tiêu cơ bản, tập trung chủ yếu vào 2 ngày 3 đêm đầu”. Hai huyện Phong Điền và
Quảng Điền được Thường vụ Khu ủy giao trách nhiệm: “Phối hợp với mặt trận chính
(Huế) cắt tuyến giao thông địch từ Huế ra và từ Quảng Trị vào. Giữa chiến dịch
thực hiện vây ép, tiêu diệt địch, chặn sự chi viện của các căn cứ Mỹ - ngụy ở
Phong - Quảng đối với Huế, vây ép tiến tới tiêu diệt các quận lỵ, phân chi khu
quân sự xã, huy động quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ, phối hợp có hiệu
quả với mặt trận Huế”. Từ nhiệm vụ được giao, Huyện ủy Phong Điền vạch ra kế
hoạch: “Bao vây quận lỵ Phò Trạch và căn cứ Đồng Lâm, phát động quần chúng vùng
lên giải phóng các xã trong huyện, tiến hành chặn đánh giao thông, cắt chi viện
của địch từ Huế ra, từ Quảng Trị vào” .
Để thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ lịch sử, công tác chuẩn bị được Huyện ủy triển khai tích
cực, khẩn trương trên các mặt tổ chức, tư tưởng, lực lượng, vật chất, đặc biệt
là chuẩn bị chiến trường. Hơn 100 đoàn viên Thanh niên Nhân dân cách mạng và du
kích các xã được huấn luyện thêm về quân sự và bổ sung lực lượng cho Huế. Một
số Huyện ủy viên vào Huế tăng cường như Nguyễn Thị Hoa, Võ Trụ (Quảng). Nhân
dân tích cực đóng góp lương thực và đi dân công vận chuyển gạo và đạn dược.
Đúng kế hoạch
đã định, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ở mặt trận Huế và các mặt trận khác
trên chiến trường Trị - Thiên bắt đầu lúc 2 giờ 33 phút ngày 31-1-1968, đảm bảo
đúng thời gian hợp đồng với các chiến trường khác trong toàn miền Nam. Cùng với
tiếng súng tấn công của quân ta vào thành phố Huế là phong trào nổi dậy của
quần chúng ở các huyện với sự hỗ trợ của bộ đội địa phương và các đội biệt
động. Tại Phong Điền, bộ đội đột nhập chợ Phò Trạch và buộc địch phải rút quân
khỏi Thanh Hương. Du kích Phong Thạnh và Phong Phú đánh sập cầu Bàu Đông. Trên
3.000 người ở Phong Hòa, Phong Bình kéo xuống bao vây quận lỵ Phò Trạch, địch
chống trả và bắn chết 37 người nhưng quần chúng vẫn không nao núng, 2 trung đội
dân vệ hoảng sợ bỏ chạy và lính Mỹ ở căn cứ Đồng Lâm phải đến thay thế để bảo
vệ quận lỵ.
Thắng lợi oanh
liệt của cuộc Tổng tấn công và nổi dậy đợt Tết Mậu Thân trên toàn miền Nam,
trong đó có phần đóng góp rất quan trọng của quân và dân Thừa Thiên Huế đã làm
thất bại hoàn toàn chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ, buộc chúng phải
xuống thang và một lần nữa phải thay đổi chiến lược chiến tranh xâm lược.
IV. VƯỢT QUA KHÓ KHĂN, CHỐNG ĐỊCH BÌNH
ĐỊNH VÀ KHÔI PHỤC PHONG TRÀO (1968 - 1972)
Sau cuộc Tổng
tấn công và nổi dậy đợt Tết Mậu Thân của quân và dân ta trên toàn miền Nam, Mỹ
- ngụy đã huy động tối đa lực lượng và sử dụng phương tiện chiến tranh có tính
hủy diệt, ra sức phản kích, chiếm lại nhiều vùng. Cơ quan Huyện ủy phải chuyển
về phía sau. Cuộc kháng chiến của quân và dân Phong Điền bước vào một giai đoạn
đầy thử thách.
Trong năm 1968,
trên toàn huyện địch đã mở 61 cuộc hành quân càn quét vào các xã. Trong hoàn
cảnh không một ngày nào ngớt tiếng đạn bom, liên tục những cảnh giết người đốt
nhà, đình chùa và mồ mả bị san ủi, một bộ phận nhân dân vẫn kiên cường bám
làng, tiếp tế lương thực cho vùng chiến khu. Có lúc đến hàng nghìn người tham
gia các cuộc họp do Huyện ủy tổ chức để phát động lòng căm thù địch. Hàng trăm
cuộc đấu tranh chính trị đã nổ ra ở xã và quận lỵ, chống địch khủng bố, chống
gom dân và đòi các quyền dân sinh dân chủ. Tháng 5-1968, bộ đội tấn công căn cứ
Đồng Lâm, phá huỷ hàng chục máy bay Mỹ, đốt cháy kho xăng và kho súng đạn.
Tháng 6-1968, du kích huyện phối hợp với bộ đội chặn đánh một đoàn xe địch,
diệt hàng chục tên địch trên quốc lộ 1.
Cho đến
cuối năm 1968, do “bị chà đi xát lại hết đợt này đến đợt khác, nhiều vùng
tự do hoặc vùng du kích trước đây ở đồng bằng trở thành vùng bị địch kiểm soát.
Các vùng cát trắng thuộc các huyện Phong Điền, Quảng Điền, Hải Lăng, không có
đồn địch…, thực ra thì ở đây không có cơ sở kháng chiến của ta và thường xuyên
bị địch kiểm soát”. Ở các xã Phong Sơn, Phong An, Phong Nguyên, Phong Hiền
v.v.., địch phản kích rất quyết liệt, “dùng máy bay rọ gáo thấy quần chúng
ra khỏi nhà là bắn. Nhân dân bị dồn vào khu tập trung sống căng thẳng. Địch
dùng máy bay đánh phá hành lang, dùng xe cày ủi, huỷ diệt nhiều thôn. Chúng rải
chất độc, bao vây kinh tế” .
Đầu tháng
10-1968 diễn ra Hội nghị liên tịch Khu ủy và Quân khu ủy Trị-Thiên Huế. Hội
nghị nhận xét tình hình các địa phương sau Tết Mậu Thân, biểu dương cán bộ và
nhân dân Phong Điền: “Phong Điền chiến đấu liên tục từ đầu đến cuối, chịu
đựng nhiều hy sinh, phong trào du kích vẫn giữ vững, đấu tranh chính trị được
đẩy mạnh. Nuôi dưỡng thương binh tốt và cố gắng nhiều trong việc động viên
lương thực, thực phẩm tiếp tế chiến khu” .
Từ đầu năm
1969, Mỹ bắt đầu thi hành chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, âm mưu “dùng
người Việt đánh người Việt” bằng vũ khí và đô la của Mỹ, do Mỹ chỉ huy. Các
chương trình bình định liên tiếp được thực hiện nhằm kiểm soát vùng nông thôn
với những biện pháp quân sự có tính hủy diệt đi đôi với việc dùng tiền của để
lôi kéo nhân dân. Ở vùng núi của huyện, Mỹ đưa lực lượng đóng chốt ở các điểm
cao hòng ngăn chặn lực lượng của ta tiến xuống đồng bằng, dùng bom đạn và chất
độc hoá học tàn phá cây cối, ruộng đồng, nương rẫy. Ở khu tập trung dân cạnh
đồn An Lỗ và quận lỵ, Mỹ-ngụy xây dựng bộ máy kìm kẹp nặng nề, ra sức thanh lọc
quần chúng. Ở mỗi xã thường xuyên có mặt từ 2 đến 3 trung đội dân vệ, cùng với
lực lượng bình định và phòng vệ dân sự được huấn luyện quân sự và trang bị vũ
khí, sẵn sàng đối phó với mọi động tĩnh của dân. Kết quả là “trong những năm
1969-1970, tình hình hết sức khó khăn, nhiều xã mất liên lạc với huyện, huyện
mất liên lạc với tỉnh”.
Trong hoàn cảnh
cực kỳ khó khăn đó, các cuộc đấu tranh vẫn được duy trì. Tại Phò Trạch
(Phong Bình), mặc cho kẻ địch chà đi xát lại nhiều lần, nhà tan cửa nát, có khi
chỉ còn một vài gia đình nhưng người dân vẫn một lòng son sắt bám trụ, luôn sẵn
có những hầm bí mật để nuôi dấu, bảo vệ cán bộ. Đội quân tóc dài gồm hàng trăm
chị em phụ nữ luôn có mặt trên trận tuyến đối mặt với kẻ thù. Hình ảnh chị em
phụ nữ ở Vĩnh Nguyên (Phong Thu) anh dũng lăn xả trước mũi xe cày của địch,
không cho chúng tàn phá xóm làng là một trong những biểu tượng tuyệt vời dám xả
thân vì sự nghiệp độc lập dân tộc của phụ nữ Việt Nam. Hàng trăm chị em phụ nữ
xã Phong Hiền đấu tranh trực diện với địch tại đồn An Lỗ, chống địch càn quét.
Du kích Phong Chương kiên cường đánh địch, “đồng chí Hỷ hàng tuần lễ nằm ngâm
mình dưới nước để nắm tình hình, liên lạc với Huyện ủy; đồng chí Nguyễn Thị
Liễu bị địch phục kích đã kiên cường chống trả, tiêu diệt địch và anh dũng hy
sinh” . Du kích Phong Hoà và Phong Chương bắn rơi máy bay Mỹ v.v..
Bước vào năm
1970, tại địa bàn Thừa Thiên Huế, Mỹ-ngụy tập trung triển khai kế hoạch “bình
định bổ sung”. Các cuộc càn quét quy mô lớn với mức độ ác liệt chưa từng có
được địch tiến hành thường xuyên. Các căn cứ ở Đồng Lâm, Hiền Sĩ được củng cố
thêm.
Từ ngày 11 đến
ngày 18-3-1970, Khu ủy Trị - Thiên Huế họp để triển khai Nghị quyết Hội nghị
Trung ương Đảng lần thứ 18. Khu ủy xác định việc đánh bại chương trình bình định
của địch là nhiệm vụ trung tâm cấp bách của Đảng bộ và nhân dân Trị - Thiên -
Huế. Để thực hiện nhiệm vụ trung tâm đó, “đi đôi với xây dựng thực lực cách
mạng, từng bước đẩy phong trào đánh bình định ở nông thôn đồng bằng, vấn đề
quyết định là phải tập trung nỗ lực làm chủ cho được miền núi, từ đó mà nối lại
thế 3 vùng, phát huy sức mạnh tổng hợp quân sự, chính trị để đánh bại bình định
của địch” .
Trong nửa sau
của năm 1970, hoạt động kháng chiến của các xã trong huyện dần dần hồi phục.
Đêm 14-7-1970, đơn vị 12 quân giải phóng với sự phối hợp của bộ đội địa phương
và du kích đã tấn công và làm chủ quận lỵ, loại khỏi vòng chiến đấu 1 đại đội
bảo an, 2 trung đội dân vệ và hơn 50 cán bộ bình định nông thôn. Ở các xã Phong
An, Phong Sơn, Phong Thu đã có cơ sở Đảng bám trụ tại chỗ. Tại các vùng giáp
ranh có các đội du kích mật. Một số trụ sở xã của ngụy quyền ở Phong Thu, Phong
Bình và Phong Chương bị tấn công. Tại các khu tập trung phong trào đấu tranh
chính trị đòi trở về làng cũ phát triển mạnh. Chỉ riêng ở Phong Thu năm 1970 đã
diễn ra 50 cuộc đấu tranh quy mô toàn xã. Công tác địch vận được chú trọng. Ở
Phong Nhiêu vận động được 60 lính ngụy trở về với nhân dân.
Cho đến cuối
năm 1971, cuộc kháng chiến của quân và dân Phong Điền đã ra khỏi khó khăn. Tỉnh
ủy Thừa Thiên được lập lại và đồng chí Lê Tư Sơn được phân công làm Bí thư
Huyện ủy. Các xã đều tăng thêm số lượng đảng viên. Lực lượng du kích mật tăng
lên vài chục người ở mỗi xã. Cán bộ bám trụ vững chắc ở cơ sở. Nhiều xã ta đã
làm chủ vào ban đêm. Lính ngụy không dám hung hăng như trước, còn lính bảo an
dân vệ thì hoạt động lừng chừng.
Trên đà thắng
lợi của cách mạng miền Nam cho đến hết năm 1971, Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ 20 họp từ ngày 27-1 đến ngày 11-2-1972 quyết định mở cuộc
tiến công chiến lược trên toàn miền Nam. Chiến trường Trị - Thiên được chọn làm
hướng tiến công hết sức quan trọng (và sau đó chuyển thành hướng tiến công chủ
yếu) trong 3 hướng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Trị - Thiên. Ngày 13-3-1972, Quân
ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến
dịch Trị - Thiên. Đến ngày 22-3-1972, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh thông qua kế hoạch
chiến dịch với quyết tâm: “trong khoảng 20 đến 25 ngày, tấn công tiêu diệt cho
được 4-5 trung đoàn địch, thực hiện quần chúng nổi dậy và giải phóng Quảng Trị,
sau đó tiếp tục phát triển vào hướng Thừa Thiên” . Mặt trận Thừa Thiên
được xác định là hướng phối hợp của chiến dịch.
Ngày 30-3-1972,
cuộc tiến công chiến lược mở màn, bộ đội chủ lực tấn công mạnh ở mặt trận Quảng
Trị. Phối hợp chặt chẽ với chiến trường Quảng Trị, bộ đội địa phương Phong Điền
phối hợp với quân chủ lực tiến công địch ở Bắc sông Bồ và Nam sông Mỹ Chánh.
Nhân dân Phong Hoà, Phong Bình và Phong Chương nổi dậy phá khu tập trung trở về
làng cũ. Ngụy quyền ở nhiều xã bị tan rã.
Do tình hình cụ
thể trên chiến trường Quảng Trị và khó khăn của địa phương nên Thừa Thiên Huế
không thực hiện được kế họach giải phóng như đã định. Ngày 28-6-1972, Bộ Tư
lệnh chiến dịch quyết định chuyển từ chiến dịch tấn công sang chiến dịch phản
công nhằm giữ vững vùng giải phóng.
Cùng với thắng
lợi của cuộc tiến công chiến lược năm 1972 ở miền Nam, thắng lợi của quân và
dân miền Bắc trong trận Điện Biên Phủ trên không cuối năm 1972 đã buộc Mỹ ký hiệp
định Paris. Chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của đế quốc Mỹ bị thất bại về
cơ bản.
V. TIẾN LÊN GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN (1973
- 1975)
Ngày 27-1-1973,
Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký
kết, Mỹ buộc phải rút quân đội viễn chinh ra khỏi miền Nam. Ngày 29-3-1973,
những đơn vị cuối cùng của quân đội Mỹ làm lễ cuốn cờ về nước.
Nằm gần với
tỉnh Quảng Trị đã được giải phóng phần lớn, Phong Điền trở thành giới tuyến
giữa ta và địch. Vì thế, Hiệp định Paris ký chưa ráo mực, chính quyền Sài Gòn
đã cố tình vi phạm. Từ ngày 28-1-1973, quân ngụy mở nhiều cuộc hành quân phản
kích lấn chiếm vùng giải phóng và hủy diệt nhiều thôn ấp như Phò Ninh, Đồng Dạ,
Thượng An, Bồ Điền (Phong An), Vĩnh Nguyên (Phong Thu), Nhất Phong, Mỹ Phú
(Phong Chương), Ưu Điềm (Phong Hòa), Phò Trạch (Phong Bình) và xã Phong Hiền,
giết hại đồng bào, dồn dân lại thành từng khu vực, từng khóm. Chúng dùng lựu
đạn ném vào hầm trú ẩn của dân, làm chết một lúc 9 người ở Phò Ninh và 3 người
ở Hiền Sĩ. Hiệp định Paris được ký kết nhưng nhân dân miền Nam nói chung và
Phong Điền nói riêng vẫn chưa được hưởng một ngày hòa bình. Thường xuyên trên
đất Phong Điền địch đóng chốt 1 sư đoàn chủ lực, 7 tiểu đoàn bảo an, 15 trung
đội dân vệ và lực lượng phòng vệ dân sự ở mỗi xã . Thế trận của ta và địch
ở Phong Điền phân tuyến rõ rệt, “địch chiếm vùng phía Tây đường quốc lộ 1 hết
địa phận xã Phong An, một số đồi trọc xã Phong Sơn, từ phía Bắc sông Ô Lâu đến
phía Bắc sông Bồ, với chiều dài trên 10 km, gồm các mỏm đồi cao vùng đồng trọc
3 xã Phong Sơn, Phong An, Phong Thu với số lượng 40 chốt… Phía sau phòng tuyến
của địch, ta có 5 địa bàn đứng chân, mỗi nơi khoảng 10-12 người bám trụ”.
Trước tình hình
địch ngày càng vi phạm nghiêm trọng hiệp định, tháng 3-1973, Thường vụ Quân khu
ủy chủ trương “phải chuẩn bị chu đáo để đánh trả quân địch lấn chiếm một cách
kiên quyết, đánh thật đau, tiêu diệt nhanh gọn và có điều kiện thì phát triển
tấn công giành thắng lợi mới”.
Sau đó, Tỉnh ủy
tổ chức hội nghị bàn kế hoạch xây dựng phong trào ở nông thôn đồng bằng, công
tác đô thị và căn cứ địa miền núi, đề ra 4 công tác lớn trong năm 1973 là: đẩy
mạnh đấu tranh chính trị; xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh, sẵn sàng đánh
bại các cuộc hành quân lấn chiếm của địch, kiên quyết bảo vệ vùng giải phóng;
ra sức xây dựng căn cứ địa cách mạng và vùng giải phóng; củng cố vai trò lãnh
đạo của Đảng phù hợp với tình hình nhiệm vụ mới.
Huyện ủy Phong
Điền được củng cố, do đồng chí Trần Văn Luyện làm Bí thư. Các cơ quan Huyện ủy
như Tổ chức, Tuyên huấn, Huyện đội, Dân vận, Kinh tế được tăng cường cán bộ. Ủy
ban Nhân dân huyện được thành lập.
Cho đến tháng
6-1973, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, quân và dân Phong Điền đã đạt được một
số thành tựu quan trọng trong kháng chiến. Về công tác tuyên truyền, treo 63 cờ
Mặt trận ở Phong An, Phong Hoà và phân phát trên 2.000 tờ truyền đơn; tại các
xã Phong An, Phong Thu, Phong Hoà, Phong Bình, Phong Chương và các điểm chốt
của địch đã 224 lần dùng loa tuyên truyền về thắng lợi của ta trong Hiệp định.
Về công tác đấu tranh chính trị, có 50 cuộc đấu tranh được tổ chức, lãnh đạo
với trên 3.000 lượt người tham gia, đòi địch thi hành Hiệp định, đòi trở về
làng cũ, chống gài mìn phục kích, chống việc bắt vào đảng Dân chủ do chính
quyền Sài Gòn lập ra. Về công tác binh địch vận, đã trực tiếp gặp trao đổi, vận
động ngay cả cấp chỉ huy tiểu đoàn ngụy, một số ngụy quân, ngụy quyền bắt đầu
giảm hành động hoặc có xu hướng ngả về ta. Về công tác kinh tế, toàn huyện đã
canh tác được 1.758 mẫu ruộng (tăng hơn năm trước 75 mẫu) và 460 mẫu đất khô.
Qua năm 1974,
thực hiện Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng và Nghị quyết của Khu ủy, Tỉnh ủy
chủ trương đẩy mạnh tiến công của các lực lượng vũ trang hướng về các khu vực
giáp ranh, đẩy mạnh phong trào ở nông thôn, thành thị nhằm tạo thế và lực mới
cho cách mạng, lấy đánh địch bình định và chống lấn chiếm làm trung tâm.
Tuy địch có
những cố gắng mới trong việc phân tuyến, tăng cường tuyến phòng thủ ở các xã
giáp ranh, nhưng đến giữa năm 1974, trong toàn huyện ta đã củng cố được cơ sở
vững chắc ở 8/12 xã và 41/63 thôn gồm 1.068 cơ sở các loại, số lượng đảng viên
tăng lên 215 người, sinh hoạt trong 28 chi bộ. Đó chính là thế và lực mới để
Phong Điền cùng với toàn tỉnh và toàn miền tiến lên giành những thắng lợi mới.
Tháng 10 và
tháng 12-1974, Bộ Chính Trị thông qua kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam
trong vòng 2 năm 1975-1976, đồng thời dự kiến: “nếu thời cơ đến thì lập tức
giải phóng miền Nam trong năm 1975”. Ngày 10-2-1975, Quân ủy Trung ương phê
chuẩn kế hoạch năm 1975 của Quân khu Trị - Thiên với nội dung cơ bản là trong
năm 1975: “đẩy mạnh tiến công tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch,
đánh bại về cơ bản kế hoạch bình định của địch ở Trị - Thiên, giành 35 vạn dân
ở nông thôn đồng bằng, phát động cao trào đấu tranh chính trị ở thành phố; tích
cực sáng tạo thời cơ và sẵn sàng chớp thời cơ tiến lên giành thắng lợi lớn, kể
cả giải phóng Huế” .
Huyện ủy Phong
Điền từ những ngày tháng 2-1975 đã chuẩn bị triển khai lực lượng về các xã đồng
bằng theo mục tiêu, nhiệm vụ đã phân công. Đúng 12 giờ đêm mồng 7-3-1975, các
đơn vị bắt đầu nổ súng tiến công địch. Kết quả, “các xã Phong Hoà, Phong Bình,
Phong Chương, Quảng Thái liền lại được với nhau tạo ra vùng liên hoàn rộng lớn”.
Đến ngày 11-3, quân ta lui vào hậu cứ ở vùng núi Phong Sơn để bảo toàn lực
lượng.
Ngày 19-3,
Quảng Trị được giải phóng hoàn toàn. Chiều ngày 21-3-1975, tất cả cán bộ, chiến
sĩ hành quân, vượt qua tuyến phòng thủ của địch. Ngày 23-3, bộ đội chủ lực phối
hợp với các lực lượng vũ trang phát động quần chúng nổi dậy. 2 giờ sáng ngày
24-3-1975, quân ta tấn công vào khu vực quận lỵ Phò Trạch. Quân địch tháo chạy
tán loạn, đến 3 giờ sáng ngày 24-3-1975 thì chúng vượt qua sông Ô Lâu chạy vào
Quảng Điền và Hương Trà. Phong Điền hoàn toàn giải phóng. Sự nghiệp kháng chiến
chống Mỹ của quân và dân Phong Điền kết thúc thắng lợi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét