Theo sử sách thì dưới triều Tây Sơn, nhiều thợ rèn Hiền Lương đã tham gia quân đội, họ đã rèn gươm dáo cho nghĩa quân Tây Sơn, trong số ấy có một người họ Hoàng được tuyển chọn để rèn thanh gươm cho chủ soái Nguyễn Huệ.
Sản phầm làng rèn Hiền Lương.
Vào đầu thời vua Nguyễn, nhiều thợ rèn Hiền Lương đã có chân trong Ngạch quân võ, Võ khố nha và Bách công Dạ Tượng cuộc mà tên tuổi các ngài còn ghi trong sách sử hay như trên quả chuông lưu tại chùa làng. Như ngài Trần Văn Đắc, một thợ rèn có nhiều công lao trong việc đào tạo thợ thuyền cho triều đình cũng như ngoài dân gian, được vua Minh Mạng đến vua Tự Đức ban cấp nhiều sắc bằng. Ngài Hoàng Văn Lịch, một thợ rèn Hiền Lương. Do trí thông minh và chịu khó nên việc học nghề sớm thành tài. Đầu triều Gia Long ông được sung vào ngạch quân võ, thăng dần lên Cai đội, rồi Lãnh binh. Đến cuối triều Minh Mạng, theo lệnh vua ông đã trực tiếp chỉ huy chế tạo thành công ba chiếc tàu thuỷ chạy bằng hơi nước khác nhau và có tên: Yên Phi, Vân Phi, Vụ Phi. Hoàng Văn Lịch được xem như người: "Kỹ sư chế tạo tàu chạy bằng hơi nước đầu tiên của Việt Nam". Theo Hương phổ của làng, ngoài việc có công chế tạo tàu thủy, ông còn rèn ra được một loại gươm rất sắc bén, dầu cây to một ôm, cũng có thể chém một nhát là đứt ngay; và ông còn chế ra các thứ súng bắn bằng hơi chứ không phải bằng thuốc. Do công lao của mình mà ngài được vua Minh Mạng thụ phong Hầu tước. Quả là một việc hiếm thấy xưa nay. Đánh giá công lao của ông trong lịch sử đóng tàu thủy chạy bằng máy hơn nước của Việt Nam, trong đợt đặt tên đường phố lần thứ IV năm 2005, tên tuổi của Hoàng Văn Lịch đã được HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế lấy để đặt cho một con đường ở vùng cảng Bãi Dâu, thuộc phường Phú Bình, thành phố Huế.
Vào cuối thế kỷ 19, theo Chiếu Cần vương, nhiều thợ rèn Hiền Lương đã hăng hái tòng quân lên chiến khu Tân Sở, mở lò sản xuất vũ khí chống Pháp.
Đầu thế kỷ 20, nhiều thợ rèn Hiền Lương trở thành những người thầy thầy dạy nghề rèn và cơ khí tại trường Bá công (Bách nghệ kỹ nghệ thực hành đầu tiên của Việt Nam) được lập tại Huế dưới triều vua Thành Thái…
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhiều con dân Hiền Lương đã đi theo cách mạng, đem nghề rèn phục vụ kháng chiên cứu quốc trong ngành quân giới, súng đạn, hỏa xa tiêu biểu như các vị Hoàng Trình, Trương Công Cẩn, Hoàng Ngọc Diêu, Dương Phước Phùng...Có người như ông Trần Hữu Nam vừa hoạt động tuyên truyền cách mạng vừa đem nghề rèn dạy cho người dân miền núi Thừa Thiên, nên được dân kính trọng gọi bằng danh xưng thân thương: "Ông Cu Đe"... Từ người thợ rèn đi làm cách mạng, về sau họ trở thành những tướng lĩnh, cán bộ trung, cao cấp của Đảng, quân đội, Nhà nước...Và cũng chính nhờ nghề rèn truyền thống mà con dân Hiền Lương sớm được học hành đỗ đạt: thời Hán học đã có nhiều người đỗ đại khoa, cử nhân, tú tài; thời hiện đại nhiều người là PGS.Tiến sĩ, Bác sĩ, kỹ sử, nhà văn, nhà báo, nhà giáo... đều không quên cái gốc con dân làng rèn.
Những năm gần đây, trong công cuộc đổi mới đất nước, rất nhiều người con dân làng rèn Hiền Lương sống ở mọi miền Tổ quốc đã được phong Nghệ nhân Bàn Tay Vàng nhờ có kỹ năng nghề rèn – cơ khí tinh xảo bảo tồn và phát triển nghề truyền thống Hiền Lương. Nhiều doanh nghiệp cơ khí của người Hiền Lương được thành lập và làm ăn phát đạt.
Nói về nghề rèn Hiền Lương xưa, ngay vào giữa thế kỷ 19, cụ Đặng Huy Trứ, một danh sĩ nổi tiếng của đất nước, ông Tổ nghề Nhiếp ảnh Việt Nam, đã cảm phục và mến mộ Nghề Rèn làng Hiền Lương, qua tác phẩm “Đặng Hoàng Trung thi sao” cụ có bài thơ “Dã nhượng Hiền Lương”. Xin được thoát dịch bài thất ngôn này ra thể lục bát:
Nghề rèn phải nhường Hiền Lương
“Nghề rèn nối nghiệp vì đời
Gần xa đều biết tiếng người Hiền Lương
Sấm vang tiếng búa Ngô Cương
Bễ lò Thái Ất bốn phương gió đầy
Công lao trời đất đặt bày
Mưu sinh năm tháng vui vầy vợ con
Đến mùa, nhà hóa chợ đông
Hái, liềm, cày, cuốc…nhiều không chỗ bày”.
Nghề rèn đã đem ngôi làng thuần nông Hiền Lương lên một vị thế mới. Nhớ ơn vị Tổ sư và các bậc tiền nhân đã dày công truyền dạy nghề rèn cho dân làng, vào cuối thế kỷ 18, dân làng đã thiết lập một ngôi nhà tranh, rước thần chủ vị Tổ Sư Nghề Rèn vào thờ, sau này ngôi nhà tranh ấy đã trở thành Tổ Đình Nghề Rèn Hiền Lương. Trải qua năm tháng, trên nền cũ xưa, nhà thờ Tổ Nghề Rèn cũng đã nhiều lần được dân làng xây dựng lại, từ nhà tranh thành nhà ngói. Kiến trúc theo kiểu truyền thống, chung quanh xây la thành bao bọc, trước dựng trụ biểu tạc câu đối tôn vinh, xây bình phong chắn chướng khí, đào hồ chữ nhật để thả cá, vừa trồng sen làm mát mùa hạ, vừa lấy nước phòng hỏa khi cần. Ở nội điện Tổ Đình, chính giữa thờ vị Tổ Sư Nghề Rèn, văn tế hàng năm linh bái ngài Tây Nhạc Kim Thiên Thuận Đế, về sau triều Nguyễn lại gia phong Thái Lợi Chi Thần, cùng phối thờ liệt vị tiên sư.Tả hữu nội điện thờ tiên hiền, hậu hiền trong làng và những người có công với nghề rèn truyền thống.
Lễ đón nhận bằng công nhận "Làng nghề truyền thống" tại tổ đình Nghề Rèn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét