Thân thế và sự
nghiệp
Nguyễn Đình
Chiểu sinh
ngày 13 tháng 5 năm Nhâm Ngọ (1 tháng 7 năm 1822), tại quê mẹ là làng Tân Thới, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (thuộc phường Cầu Kho, Quận 1, Thành phố Hồ Chí
Minh ngày
nay).
Ông xuất thân trong gia đình nhà nho. Cha ông là Nguyễn Đình Huy, người
làng Bồ Điền, xã Phong An, huyện Phong Điền,
tỉnh Thừa Thiên; nay thuộc huyện Phong Điền,
tỉnh Thừa Thiên-Huế. Lớn lên, ông
cưới vợ ở đây và đã có hai con (một trai và một gái). Mùa hạ, tháng 5 năm Canh Thìn (1820) Tả quân Lê Văn Duyệt được triều đình Huế phái vào làm Tổng trấn Gia Định Thành. Đến đầu mùa thu, Nguyễn Đình
Huy đi theo Tả quân, để tiếp tục làm thư lại ở Văn hàn ty thuộc dinh Tổng trấn.
Ở Gia Định, ông Huy có
thêm người vợ thứ là bà Trương Thị Thiệt, người làng Tân Thới, sinh ra 7 con (4
trai, 3 gái), và Nguyễn Đình Chiểu chính là con đầu lòng.
Đi
học
Thuở nhỏ, Nguyễn Đình Chiểu được mẹ nuôi
dạy. Năm lên 6, 7 tuổi, ông theo học với một ông thầy đồ ở làng.
Năm 1832, Tả quân Lê Văn Duyệt mất. Năm sau (1833), con nuôi Tả quân là Lê Văn Khôi, vì bất mãn đã
làm cuộc nổi dậy chiếm thành Phiên An ở Gia Định, rồi chiếm cả Nam Kỳ. Trong cơn binh
biến, cha của Nguyễn Đình Chiểu bỏ trốn ra Huế, nên bị cách hết chức tước. Song
vì thương con, cha ông lén trở vào Nam, đem ông ra gửi cho một người bạn đang
làm Thái phó ở Huế để tiếp tục
việc học. Nguyễn Đình Chiểu sống ở Huế từ 11 tuổi (1833) đến 18 tuổi (1840), thì trở về Gia Định.
Năm Quý Mão (1843), ông đỗ Tú tài ở trường
thi Gia Định lúc 21 tuổi.
Khi ấy, có một nhà họ Võ hứa gả con gái cho ông .
Năm 1847, ông ra Huế học để chờ khoa thi
năm Kỷ Dậu (1849). Lần này, ông
cùng đi với em trai là Nguyễn Đình Tựu (10 tuổi).
Mẹ
mất, bị mù lòa
Ngày rằm tháng 11 năm Mậu Thân (31 tháng 12 năm 1848), mẹ Nguyễn Đình Chiểu mất ở Gia Định. Được tin, ông
bỏ thi, dẫn em theo đường bộ trở về Nam chịu tang mẹ.
Trên đường trở về, vì quá thương khóc mẹ,
vì vất vả và thời tiết thất thường, nên đến Quảng Nam thì Nguyễn
Đình Chiểu bị ốm nặng. Trong thời gian nghỉ chữa bệnh ở nhà một thầy thuốc vốn
dòng dõi Ngự y, tuy bệnh không hết, nhưng ông cũng đã học được nghề thuốc. Lâm
cảnh đui mù, hôn thê bội ước, cửa nhà sa sút... Nguyễn Đình Chiểu đóng cửa chịu
tang mẹ cho đến năm 1851, thì mở trường
dạy học và làm thuốc ở Bình Vi (Gia Định). Truyện
thơ Lục Vân Tiên của ông có
lẽ được bắt đầu sáng tác vào thời gian này.
Năm 1854, Nguyễn Đình Chiểu cưới Lê Thị Điền (1835-1886, người làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc, trước thuộc
Gia Định; nay thuộc tỉnh Long An) làm vợ. Bà Điền
là em gái thứ năm của Lê Tăng Quýnh, học trò ông, vì cảm phục và mến thương thầy,
đã xin gia đình tác hợp. Truyện thơ Dương Từ-Hà Mậu của ông có
lẽ được bắt đầu sáng tác vào thời gian này .
Dạy
học, làm thuốc và sáng tác thơ văn yêu nước
Năm 1858, quân Pháp nổ súng
vào Đà Nẵng. Vấp phải sự kháng cự quyết liệt của quân và dân Việt, họ vào Nam
đánh phá thành Gia Định vào đầu
năm 1859. Sau khi tòa
thành này thất thủ (17 tháng 2 năm 1859), Nguyễn Đình Chiểu đưa gia đình về sống
ở Thanh Ba (Cần Giuộc), tức quê vợ
ông. Vô cùng đau đớn trước thảm cảnh mà quân Pháp đã gây nên cho đồng bào ông,
và rất thất vọng về sự hèn yếu, bất lực của triều đình, ông làm bài thơ
"Chạy giặc".
Đêm rằm tháng 11 năm Tân Dậu (16 tháng 12 năm 1861), những nghĩa sĩ mà trước đây vốn là
nông dân, vì quá căm phẫn kẻ ngoại xâm, đã quả cảm tập kích đồn Pháp ở Cần Giuộc, tiêu diệt được
một số quân của đối phương và viên tri huyện người Việt đang làm cộng sự cho
Pháp. Khoảng mười lăm nghĩa sĩ bỏ mình. Những tấm gương đó đã gây nên niềm xúc
động lớn trong nhân dân. Theo yêu cầu của Tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang, Nguyễn Đình
Chiểu làm bài "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc", để đọc tại buổi truy điệu các
nghĩa sĩ đã hy sinh trong trận đánh này.
Sau Hòa ước Nhâm Tuất 1862, ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ mất về tay
Pháp, theo phong trào "tỵ địa" , Nguyễn Đình Chiểu cùng gia đình
rời Thanh Ba (Cần Giuộc) về Ba Tri (Bến Tre), vì không thể sống chung với họ.
Chia tay với bạn bè thân quen, ông làm bài thơ "Từ biệt cố nhân".
Về Ba Tri, ông tiếp tục dạy học, làm thuốc
và đem ngòi bút yêu nước của mình ra phục vụ cuộc đấu tranh anh dũng của đồng
bào Nam Kỳ suốt trong
hơn 20 năm, dù đã mù lòa .
Năm 1863, em trai út ông là Nguyễn Đình Huân
theo Đốc binh Là chống Pháp, hy sinh ở Cần Giuộc.
Tháng 8 năm 1864, thủ lĩnh cuộc kháng chiến chống Pháp ở Gò Công là Trương Định bị thương
rồi tuẫn tiết ở Ao Dinh; xúc động, Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế và mười hai
bài thơ liên hoàn để điếu ông.
Năm 1867, Kinh lược sứ Phan Thanh Giản và Đốc học Vĩnh Long Nguyễn Thông tổ chức
đưa di hài nhà giáo Võ Trường Toản từ làng
Hòa Hưng (Gia Định) về táng ở Bảo
Thạnh (Ba Tri), Nguyễn Đình
Chiểu có đến dự lễ rước.
Ngày 4 tháng 8 năm đó (1867), Phan Thanh Giản tuẫn tiết vì không giữ
được thành Vĩnh Long, Nguyễn Đình Chiểu có làm hai bài thơ điếu ông. Có thể ông
bắt đầu soạn quyển thơ Ngư tiều vấn đáp nho y diễn ca trong
năm này.
Năm 1868, thủ lĩnh kháng Pháp ở Ba Tri là Phan
Tòng (còn có tên là Phan Ngọc Tòng) hy sinh, ông
làm 10 bài thơ điếu.
Năm 1877, Nguyễn Đình Chiểu dời đến ở làng An
Bình Đông (sau đổi là An Đức) cách chợ Ba Tri khoảng hai cây số.
Năm 1883, Tỉnh trưởng Bến Tre là Michel
Ponchon đã đến nhà để yêu cầu ông nhuận chính quyển thơ Lục Vân Tiên, đồng thời
ngỏ ý trao trả lại ruộng vườn của ông mà họ đã chiếm đoạt . Ông khẳng khái
nói: "Đất vua không ai trả thì đất riêng của tôi có sá gì", rồi khước
từ mọi hứa hẹn giúp đỡ của chính quyền thực dân. Lại hỏi ý muốn riêng của ông,
ông đáp "muốn tế vong hồn nghĩa sĩ Lục tỉnh", và được viên Tỉnh trưởng
chấp thuận. Sau đó, ông tổ chức lễ tế tại chợ Ba Tri, và đọc bài "Văn tế
nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh" .
Qua
đời
Năm 1886, vợ ông là bà Lê Thị Điền mất lúc 51 tuổi.
Buồn rầu vì vợ mất, vì cảnh nước mất nhà tan đã bấy lâu, vì bệnh tật ngày càng
trầm trọng , hai năm sau, ngày 24 tháng 5 năm Mậu Tý (3 tháng 7 năm 1888), Nguyễn Đình Chiểu cũng qua đời tại Ba
Tri, thọ 66 tuổi. Ngày đưa tiễn nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu về cõi vĩnh hằng,
cánh đồng An Đức rợp trắng khăn tang của những người mến mộ ông.
Ông được an táng cạnh mộ vợ, nay thuộc ấp
3, xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
Tác phẩm chính
Lục Vân Tiên (truyện
thơ Nôm, bắt đầu soạn khoảng 1851), gồm 2082 câu thơ lục bát. Đây là một
"bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý đáng trọng ở đời"
đã làm nên tên tuổi Nguyễn Đình Chiểu , và là một tác phẩm lớn của văn học Việt Nam, được nhân dân,
đặc biệt là nhân dân Nam Bộ yêu chuộng .
Sau thời gian phổ biến theo lối truyền miệng, truyện Lục Vân Tiên đã được Duy
Minh Thị (tên thật là Trần Quang Quang ở Chợ Lớn) khắc in lần đầu ở Trung Quốc trước
năm 1864, và đã được các
nhà văn như Aubaret, Abel de Michels, Bajot...dịch ra tiếng nước ngoài.
Dương Từ - Hà Mậu (truyện thơ Nôm, bắt đầu soạn khoảng 1854). Căn cứ bản Tân Việt (Sài Gòn, 1964) do Phan Văn Hùm sao lục và
hiệu đính, thì tập thơ gồm 3.456 câu, trong đó phần lớn là thơ lục bát, có xen
thơ luật Đường (33 bài)
và các thể khác.... Tác giả mượn câu chuyện này để nói lên thái độ của ông đối
với đạo Phật và Công giáo Rôma mà ông
không tán thành .
Ngư Tiều vấn
đáp nho y diễn ca (Ngư
tiều y thuật vấn đáp, 1867?), gồm 3.642
câu, trong đó phần lớn là thơ lục bát, có xen 21 bài thơ và một số bài thơ ca,
phú…trích từ các sách thuốc Trung Quốc . Đây là một quyển sách dạy nghề
làm thuốc chữa bệnh, viết dưới hình thức truyện thơ Nôm. Song giá trị chủ yếu ở
việc tác giả đã lồng tư tưởng yêu nước vào nội dung y thuật .
Ngoài ra, ông còn để lại khoảng 37 bài
thơ và văn tế, trong số đó có nhiều bài nổi tiếng, như:
-
Chạy giặc (1859)
-
Từ
biệt cố nhân (1859)
-
Tế
Cần Giuộc sĩ dân trận vong văn (tức Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, 1861)
-
Mười
hai bài thơ và bài văn tế Tướng quân Trương Định (1864)
-
Thơ
điếu Đông các Đại học sĩ Phan Thanh Giản (2 bài, 1867)
-
Mười
bài thơ điếu Ba Tri Đốc binh Phan Tòng (1868)
- Lục tỉnh sĩ dân
trận vong văn (Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh, chưa biết đích xác thời điểm
sáng tác).
-
Hịch
kêu gọi nghĩa binh đánh Tây (chưa xác định thời điểm sáng tác)
-
Thảo
thử hịch (Hịch đánh chuột, chưa xác định thời điểm sáng tác)
-
Ngóng
gió đông (chưa xác định thời điểm sáng tác)
-
Thà
đui (chưa xác định thời điểm sáng tác), v.v...
Sự nghiệp văn
chương
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho tiết
tháo, sống theo đạo nghĩa, tuy mang tật mù tối, và gặp lúc biến loạn mà vẫn giữ
được phẩm cách thanh cao. Ông không chỉ là người con có hiếu, người thầy mẫu mực,
mà còn là một nhà thơ yêu nước, đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị.
Ông là nhà thơ có quan niệm văn chương
nhất quán. Ông chủ trương dùng văn chương biểu hiện đạo lý và chiến đấu cho sự
nghiệp chính nghĩa. Nói khác hơn, ông làm thơ là để "chở đạo, sửa đời và dạy
người" . Vì vậy, mỗi vần thơ của ông đều ngụ ý khen chê công bằng, rạch
ròi, và đều bộc lộ một tấm lòng thương dân, yêu nước của ông. Sự nghiệp văn
chương của ông, có thể chia thành hai thời kỳ sáng tác:
- Giai đoạn đầu (những
năm 50 của thế kỷ 19): Trong giai đoạn
này, ông viết "Lục Vân Tiên" và "Dương Từ-Hà Mậu". Có thể
xem đây là thời kỳ khẳng định tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng yêu nước yêu dân của
ông.
- Giai đoạn sau bắt
đầu từ ngày quân Pháp đến chiếm lấy Gia Định (1859) cho đến khi ông qua đời (1888): Ngòi bút của ông ở giai đoạn này gắn
bó mật thiết với cuộc sống của người dân mất nước. Trong nhiều tác phẩm như
"Chạy Giặc", "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc", "Lục tỉnh sĩ
dân trận vong", v.v,...ông đã lên án mạnh mẽ quân Pháp xâm lược, phê phán
triều đình nhu nhược, đồng thời ca ngợi tinh thần nghĩa khí và những tấm gương
chiến đấu anh dũng của nhân dân. Đây là giai đoạn phát triển cao và rực rỡ của
sự nghiệp văn chương Nguyễn Đình Chiểu
Và
dù ở giai đoạn nào, trong các tác phẩm của ông nổi bật lên ba đặc điểm về nội
dung và hình thức, đó là:
- Ông thường
dùng chữ Nôm, và bằng ngôn
ngữ nghệ thuật bình dị, giàu sức gợi cảm, khiến cho tác phẩm của ông có sức thu
hút mạnh mẽ người đọc, nhất là đối với nhân dân miền Nam.
- Ông là nhà thơ đầu
tiên xây dựng thành công hình ảnh những người nông dân trong văn học Việt, đắp
tô tượng đài vĩnh cửu về người anh hùng Nam Bộ tiên phong
trong công cuộc chống thực dân Pháp xâm lược.
- Ông đề cao tư tưởng
Nho gia, xem ra có vẻ bảo thủ. Song điều đáng chú ý là các tư tưởng ấy mang nội
dung đạo nghĩa nhân dân, gắn chặt với ý thức trách nhiệm đối với vận mệnh của đất
nước, do đó có một ý nghĩa xã hội to lớn, khởi đầu cho một thời đại văn chương
sử thi mới sau này.
Tóm lại, so với
các trước tác của các nhà văn cùng thời, Nguyễn Đình Chiểu đã có một thái độ
tích cực hơn, vì dân vì nước hơn. Tuy không đứng vào hàng ngũ cầm khí giới,
nhưng ông rất có cảm tình với họ, chia sẻ với họ cái hờn mất nước, lòng căm
ghét quân địch và bọn hợp tác...
Giai thoại
Mộ Nguyễn Đình Chiểu (trái), mộ vợ ông
(phải), phía xa là mộ Sương Nguyệt Anh và đền thờ
của ông.
Thực dân Pháp cho Tôn Thọ Tường, là bạn của Đồ
Chiểu đến dụ dỗ ông. Đến mấy lần, nhưng lần nào đều bị Đồ Chiểu tìm cớ lánh mặt,
Sau Tường gửi tặng hủ mắm cá lóc, mà Tường nói rõ trong thư là chính tay của vợ
mình làm, để biếu bạn xưa. Sau khi ăn gần hết, Đồ Chiểu mới phát hiện ở dưới
đáy hũ có mấy nén vàng, ông vô cùng tức giận, viết thư trách Tôn Thọ Tường và
sai người trả lại vàng.
Michel Ponchon, tỉnh trưởng tỉnh Bến Tre cũng đã mấy
lần thân hành đến nhà Đồ Chiểu. Có lần lấy cớ nhờ nhuận sắc bản Lục Vân
Tiên, nhưng ông giả vờ điếc đặc. Có lần viên quan này thông báo việc trả lại
ruộng đất ở Tân Thới (Gia Định) cho Đồ Chiểu, nhưng nhận được câu trả lời:
"Đất vua còn phải bỏ, thì đất tôi sá gì!". Lần khác, M. Ponchon đặt
ra vấn đề cấp dưỡng, Đồ Chiểu nói: "Tôi đây đang sống đầy đủ trong sự tôn
kính của các môn đệ và sự quý mến của đồng bào. Điều đó đã làm tôi thỏa mãn lắm
rồi"...Duy nhất có một lần, M. Ponchon hỏi Đồ Chiểu về một ước nguyện. Đồ
Chiểu nói chỉ mong ước chính phủ Pháp cho ông tổ chức một buổi lễ tế vong hồn
những người dân đã chết trận, và đã được viên quan này đồng ý. Hôm đó, tại chợ
Đập (nay là chợ Ba Tri), nghe Đồ Chiểu đọc bài văn tế thảm thiết, đông đảo mọi
người đến dự đều không cầm được nước mắt...
Thông tin liên
quan
Con của Nguyễn Đình Chiểu có tất cả là
ba trai ba gái. Trong số ấy có nữ sĩ Sương Nguyệt Anh (con gái
thứ năm) và Nguyễn Đình Chiêm (con trai thứ sáu) đều là người có tiếng trong giới
văn chương.
Toàn thể khu đền thờ và mộ Nguyễn Đình
Chiểu tại huyện Ba Tri (Bến Tre) đã được Bộ Văn
hóa Thông tin công nhận di tích Lịch sử Văn hóa ngày 16 tháng 3 năm 1993.
Vinh danh
Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, Hội
Văn nghệ Giải phóng Miền Nam đã lập ra Giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu công bố
năm 1965 dành tặng
cho các tác giả, tác phẩm nổi bật trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật ở miền Nam.
Nhiều tên đường tại các thành phố (Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt v.v.) và tên trường học (nhất là
các trường dành cho trẻ em khuyết tật) ở Việt Nam mang tên ông.
Nguồn Wikipedia.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét